Vài suy nghĩ về vị trí, vai trò của pháp luật về chứng thực

(08/09/2015)

Về bản chất, chứng thực chính là sự xác nhận. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của pháp luật về chứng thực theo nghĩa hẹp thì không phải bất kỳ sự xác nhận nào cũng được coi là hoạt động chứng thực mà phạm vi hoạt động chứng thực chỉ giới hạn đối với ba loại việc: chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Như vậy, chứng thực là hoạt động xác nhận. Bản chất của hoạt động chứng thực là hoạt động mang tính chất thị thực hành chính của cơ quan hành chính công quyền (hoặc tổ chức, cá nhân đặc biệt được Nhà nước ủy quyền), là một dịch vụ hành chính công. Thông qua hoạt động chứng thực, Nhà nước cung cấp dịch vụ nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tạo lập giá trị pháp lý cho các giấy tờ, văn bản phục vụ việc thực hiện thủ tục hành chính của người dân. Chủ thể của hoạt động chứng thực là cán bộ, công chức hoặc cá nhân được nhà nước ủy quyền. Như vậy, hoạt động chứng thực luôn gắn chặt với vai trò của quyền lực công. Hành vi chứng thực là hành vi hành chính. Xuất phát từ bản chất như vậy nên có thể thấy pháp luật về chứng thực có vị trí, vai trò như sau:

1.Pháp luật về chứng thực cung cấp phương tiện để thực hiện quyền của con người nói chung và quyền của công dân nói riêng (nói cách khác đây là một dịch vụ):

   Để tồn tại, con người cần thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu như: ăn, mặc, ở, đi lại... Xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng được nâng cao và trở nên phong phú, đa dạng. Để đáp ứng các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của mình, con người phải tham gia các mối quan hệ xã hội thông qua các hoạt động trong cuộc sống như: học tập, làm việc, kết hôn, thực hiện các giao dịch... Hiến pháp của tất cả các quốc gia, trong đó có Hiến pháp của Việt Nam cũng đều ghi nhận những quyền cơ bản đó của con người, VD: quyền có nơi ở hợp pháp; quyền tự do đi lại và cư trú; quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp; quyền thừa kế; quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; quyền làm việc; quyền kết hôn, ly hôn; quyền học tập, quyền được nghiên cứu khoa học... Tuy nhiên, để thực hiện được những quyền này, con người cần thực hiện các thủ tục nhất định. Và,  pháp luật chứng thực chính là phương tiện để con người thực hiện các quyền này hoặc tạo ra phương tiện để con người thực hiện các thủ tục này. Tùy theo từng loại việc chứng thực cụ thể, hoạt động chứng thực cung cấp phương tiện thực hiện quyền con người dưới hai mức độ khác nhau như sau:

   + Cung cấp dịch vụ trực tiếp để các chủ thể thực hiện quyền con người: đó là hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch. Thông qua việc chứng thực hợp đồng, giao dịch, người thực hiện chứng thực đã khiến cho hợp đồng, giao dịch đó trở nên có hiệu lực pháp luật: được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, sau khi hợp đồng, giao dịch được chứng thực hợp lệ, các chủ thể phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng, giao dịch đó.

+ Cung cấp dịch vụ gián tiếp để các chủ thể thực hiện quyền con người: đó là các hoạt động chứng thực bản sao, chữ ký, chứng thực hợp đồng/giấy ủy quyền... Thông qua kết quả của hoạt động chứng thực là bản sao có chứng thực, văn bản có chữ ký được chứng thực hoặc hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền... các chủ thể có thể tiếp tục tiến hành thực hiện các thủ tục hành chính tiếp theo để thực hiện quyền của mình như: xin học, xin việc, chuyển giao quyền sở hữu tài sản...

  2.Pháp luật về chứng thực tạo ra công cụ hỗ trợ hoạt động hành chính có hiệu quả, giảm phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân

  - Thông qua hoạt động chứng thực, pháp luật về chứng thực đã tạo độ tin cậy pháp lý cho các giấy tờ, văn bản:

+ Đối với bản sao được chứng thực - do đã được cơ quan có thẩm quyền đảm bảo nội dung của bản sao là chính xác so với bản chính và bản chính là có thực và hợp lệ, vì vậy những trường hợp ở xa có thể nộp hồ sơ yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính với bản sao có chứng thực qua đường bưu điện, như vậy vừa tiết kiệm thời gian, chi phí, người dân không phải đi lại xa xôi mà vẫn đảm bảo độ chính xác, tin cậy của giấy tờ. Tuy nhiên, trên thực tế thời gian qua, do tâm lý ỷ lại chính quyền nên xã hội đã có hiện tượng lạm dụng bản sao có chứng thực, gây phiền hà cho người dân, lãng phí cho xã hội và Thủ tướng Chính phủ đã phải ban hành Chỉ thị 17/CT-TTg để chấn chỉnh tình trạng này. Như vậy, có thể thấy Chỉ thị của Thủ tướng không “cấm” sử dụng bản sao có chứng thực mà chỉ yêu cầu phải sử dụng bản sao có chứng thực một khách hợp lý. Nếu được sử dụng một cách hợp lý thì bản sao có chứng thực sẽ phát huy vai trò rất hữu ích.

   + Thông qua pháp luật về chứng thực chữ ký người dịch, hoạt động chứng thực đã tạo độ tin cậy pháp lý cho văn bản, giấy tờ được dịch, đảm bảo chuyển tải ngôn ngữ một cách chính xác, đầy đủ. Vì vậy, người tiếp nhận  giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài có thể yên tâm, tin tưởng vào nội dung giấy tờ, văn bản được dịch. Đặc biệt vào giai đoạn hiện nay, khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới trên nhiều lĩnh vực thì việc đảm bảo độ tin cậy của bản dịch ngày càng trở thành một nhu cầu thiết yếu.

     - Pháp luật về chứng thực đã tạo ra công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc kết nối, thực hiện thủ tục hành chính tại những vùng miền có khoảng cách địa lý khác nhau hoặc trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau:

+ Cụ thể, thông qua hoạt động chứng thực chữ ký, người có chữ ký được chứng thực có thể thực hiện các giao dịch tại một địa bàn rất xa xôi mà không cần phải trực tiếp di chuyển tới đó. VD: một người có thể gửi văn bản có chữ ký được chứng thực ra nước ngoài để phục vụ việc thực hiện giao dịch tại nước ngoài đó...

Tuy nhiên, tại một số Hội thảo, đã có ý kiến đề nghị nên xóa bỏ hoạt động chứng thực chữ ký vì trên thực tế hoạt động này dễ bị kẻ xấu lợi dụng. (Một số kẻ đã lợi dụng hoạt động chứng thực chữ ký để lừa đảo người dân tại những vùng nông thôn, khó khăn, ... nơi có dân trí thấp. VD: kẻ lừa đảo thường cho người dân xem văn bản được chứng thực chữ ký với nội dung: tôi là X, cán bộ của cơ quan Y.... và người dân do không có trình độ nên dễ dàng bị mắc lừa khi thấy chữ ký, con dấu của chính quyền địa phương). Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì pháp luật phải đặt mục tiêu cao nhất là tạo thuận lợi cho người dân. Vì vậy, không thể và không nên xóa bỏ hoạt động chứng thực chữ ký mà thay vào đó cần nghiên cứu kỹ để đưa ra quy định về hoạt động chứng thực chữ ký một cách chặt chẽ hơn. Có thể nói, cho đến nay, trong các loại việc về chứng thực thì việc chứng thực chữ ký là loại việc dễ bị lợi dụng (vào các mục đích khác nhau) nhiều nhất do pháp luật về chứng thực chữ ký quy định còn khá “thoáng”. Bên cạnh đó cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao dân trí cho người dân.

+ Thông qua pháp luật về chứng thực hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền, hoạt động chứng thực đã tạo thuận lợi cho người có nhu cầu thực hiện giao dịch nhưng do vướng mắc về khoảng cách địa lý, sức khỏe, thời gian... vẫn có thể thực hiện được các giao dịch một cách thuận lợi nhất.

      Như vậy, hoạt động chứng thực là phương thức để cơ quan hành chính công quyền thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của người dân nhằm phục vụ cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hay nói cách khác, hoạt động chứng thực là phương tiện để thông qua đó người dân thỏa mãn các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, ở một đất nước còn đang trong giai đoạn phát triển như Việt Nam, khi điều kiện kinh tế - xã hội phát triển còn chưa đồng đều tại các vùng miền, thì hoạt động chứng thực càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Với mạng lưới hơn 700 UBND cấp huyện và hơn 11.000 UBND cấp xã trải đều trên toàn quốc, và hiện nay thêm cả mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng, hệ thống cơ quan chứng thực hoàn toàn có thể đảm đương tốt nhiệm vụ chứng thực, đáp ứng nhu cầu của người dân trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.

  3. Pháp luật về chứng thực làm hạn chế tranh chấp, góp phần bảo đảm ổn định trật tự kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho người dân

Thông qua hoạt động chứng thực, đặc biệt chứng thực hợp đồng, giao dịch, người thực hiện chứng thực đã xem xét, kiểm tra một số giấy tờ cũng như một số điều kiện pháp lý của hợp đồng, giao dịch... đảm bảo hợp đồng, giao dịch đó có hiệu lực pháp luật, vì vậy hạn chế tranh chấp, kiện tụng, góp phần đảm bảo ổn định trật tự kinh tế - xã hội. Theo quy định, văn bản chứng thực nếu được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thì có giá trị chứng cứ không phải chứng minh. Tuy UBND là cơ quan hành chính Nhà nước, với nguyên tắc hoạt động là thứ bậc, mệnh lệnh, cho phép,… cơ quan hành chính cấp trên có thể xem xét, hủy bỏ các văn bản của cơ quan hành chính cấp dưới, nhưng đặc điểm này không thể áp dụng trong hoạt động chứng thực. Bởi vì, ở đây quyền tự định đoạt là của chủ sở hữu và các bên liên quan. Quyền đó không bị chi phối bởi việc cho hay không của cơ quan hành chính; cơ quan hành chính cấp trên cũng không thể tự ra một văn bản yêu cầu hủy bỏ một văn bản mà các bên đã xác lập đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

4. Pháp luật chứng thực có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch

 Mức độ thực hiện các giao dịch trong xã hội phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế – xã hội. Ở đâu điều kiện kinh tế - xã hội càng phát triển thì ở đó các giao dịch xuất hiện càng nhiều. Tuy nhiên, việc thực hiện các giao dịch phải thông qua các thủ tục nhất định. Vì vậy, nếu thủ tục, trình tự thực hiện giao dịch rắc rối, phiền hà… sẽ làm giảm mức độ thực hiện các giao dịch, thậm chí làm ách tắc việc thực hiện các giao dịch. Ngược lại, nếu thuận lợi, nhanh gọn, chi phí tiết kiệm sẽ thúc đẩy việc thực hiện các giao dịch trong xã hội.

  5. Pháp luật về chứng thực là công cụ để thực hiện quản lý nhà nước có hiệu quả

      Hoạt động chứng thực là một trong những công cụ để phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước. Bên cạnh hoạt động công chứng, hoạt động chứng thực cũng tạo ra một “kênh” giúp cho Nhà nước nắm bắt tình hình giao kết hợp đồng, giao dịch, đảm bảo an toàn pháp lý cho những hợp đồng, giao dịch này cũng như nắm bắt tình hình chứng thực các loại việc khác để phục vụ cho việc hoạch định các chính sách phù hợp./.

Nguyễn Thu Hương


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang