Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thời gian qua, hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cần được khắc phục, hoàn thiện trên một số mặt sau đây:
- Cơ sở pháp lý của hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch còn lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo: Hiện nay, việc chứng thực hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, nhưng cùng với sự ra đời của hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chứng thực như Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Công chứng… một số quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP không còn phù hợp với tình hình thực tế. Tình trạng này tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong cơ sở pháp lý của hoạt động chứng thực, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật về chứng thực, biểu hiện một số điểm sau:
+ Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì UBND cấp xã không có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch, chỉ UBND cấp huyện mới có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản trong phạm vi địa hạt và chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì UBND cấp huyện lại không có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất mà chỉ UBND cấp xã mới có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân. Mặt khác, theo quy định của Luật Nhà ở năm 2005 thì UBND cấp huyện tại đô thị và UBND cấp xã tại nông thôn mới có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở. Như vậy, thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch của UBND cấp huyện, cấp xã tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã không còn phù hợp với Luật Đất đai, Luật Nhà ở. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, tuy đất đai và nhà ở là một khối tài sản gắn liền, không thể tách rời, nhưng thẩm quyền chứng thực của UBND cấp huyện, cấp xã trong Luật Đất đai và Luật Nhà ở lại khác nhau, khiến cho người dân và cơ quan thực hiện chứng thực gặp nhiều lúng túng trong việc xác định thẩm quyền chứng thực.
+ Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực di chúc và văn bản từ chối nhận di sản, còn UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản và văn bản khai nhận di sản. Tuy nhiên, do theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 thì UBND cấp huyện không có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất nên nhiều địa phương còn băn khoăn về việc UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản liên quan đến quyền sử dụng đất hay không. Mặc dù tại Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất đã nêu rõ UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực văn bản phân chia thừa kế quyền sử dụng đất, văn bản nhận thừa kế quyền sử dụng đất, tuy nhiên do Thông tư này chỉ là văn bản hướng dẫn Nghị định số 75/2000/NĐ-CP nên còn dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Mặt khác, UBND cấp huyện tại nông thôn có thẩm quyền chứng thực đối với văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản liên quan đến quyền sở hữu nhà ở không hiện vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch cũng gặp nhiều khó khăn do chưa có sự thống nhất, đầy đủ của quy định pháp luật:
+ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai, không quy định phải ghi rõ tên của các thành viên hộ gia đình trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, cán bộ chứng thực không thể căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định thành viên của hộ gia đình, trong khi theo quy định thì hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình phải được sự đồng ý của các thành viên có đủ năng lực hành vi dân dự trong hộ gia đình đó.
+ Cũng theo quy định của pháp luật về đất đai thì hợp đồng, văn bản liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự thì việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý, đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Như vậy, quy định giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về dân sự chưa có sự thống nhất, gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực.
+ Hiện nay, việc chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai cũng gặp nhiều khó khăn do pháp luật chưa quy định rõ căn cứ để xác định một tài sản là tài sản hình thành trong tương lai, bên cạnh đó quy định về thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến loại tài sản này còn chung chung, chưa rõ ràng, do đó trên thực tế việc chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai còn hạn chế, trong khi đó nhu cầu giao dịch đối với loại tài sản này cũng rất nhiều.
+ Do pháp luật hiện hành chỉ quy định việc thu lệ phí chứng thực, không quy định việc thu phí chứng thực nên đối với một số hoạt động phục vụ cho việc chứng thực hợp đồng, giao dịch như soạn thảo hợp đồng, giao dịch, photocopy tài liệu, đánh máy… cơ quan thực hiện chứng thực không có căn cứ để thu phí chứng thực, gây khó khăn cho việc chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Như vậy, có thể thấy một số quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã không còn phù hợp. Vì vậy, việc sớm xây dựng và ban hành Luật Chứng thực để tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho hoạt động chứng thực là hết sức cần thiết. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về chứng thực và pháp luật có liên quan sẽ giúp hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân./.
Nguyễn Thu Hương