Quy định trên thể hiện rõ quan điểm
tiến bộ và chính sách nhất quán của Nhà nước ta về hạn chế tình trạng không
quốc tịch, đồng thời để bảo đảm quyền có quốc tịch theo nguyên tắc quy định tại
Điều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch
thường trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này”.
Sau khi Luật Quốc tịch năm 2008 có hiệu
lực, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành hữu quan và
các cơ quan có thẩm quyền của các địa phương trên cả nước tổ chức Hội nghị tập
huấn Luật Quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành tại 3 khu vực (Bắc,
Trung, Nam) cho các cán bộ làm công tác quốc tịch ở Trung ương và địa phương.
Đồng thời, Ban
cán sự Đảng bộ Bộ Tư pháp có chỉ đạo điểm đối với các tỉnh có nhiều người thuộc
diện Điều 22 như các tỉnh Kon Tum, Thừa Thiên Huế; có văn bản đề nghị Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm,
chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương chỉ
đạo các ngành liên quan thuộc tỉnh (Sở Tư pháp, Sở Ngoại vụ, Công an, Ủy ban
nhân dân các cấp…) phối hợp chặt chẽ, khẩn trương xây dựng kế hoạch, rà soát,
lập danh sách, xác minh…hoàn tất hồ sơ, kèm theo văn bản đề xuất với Chính phủ,
Chủ tịch nước giải quyết cho các đối tượng đủ điều kiện được nhập quốc tịch
Việt Nam theo Điều 22. Yêu cầu đặt ra đến ngày 31/12/2012 phải hoàn thành việc
tiếp nhận hồ sơ giải quyết theo Điều 22.
Công tác triển khai
nhập quốc tịch Việt Nam cho người không quốc tịch theo quy định Điều 22 của
Luật được đa số các địa phương quan tâm và triển khai thực hiện. Kết quả đạt được cụ thể: 60/63 địa phương
đã ban hành Kế hoạch thực hiện nhập quốc tịch Việt Nam cho người không quốc
tịch theo quy định Điều 22 (03 địa phương không ban hành vì qua rà soát sơ bộ
không có trường hợp nào theo quy định Điều 22 gồm thành phố Hải Phòng, Phú Thọ
và
Đắc Nông); 29 địa phương đã giải quyết dứt điểm người
không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam theo Điều 22; 01 địa phương (thành phố Hồ Chí Minh) đã tiếp nhận hồ sơ,
đang chờ cơ quan Công an xác minh theo thẩm quyền và tiến hành các thủ tục
trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định; 33 địa phương, qua
rà soát không có trường hợp nào là đối tượng được nhập quốc tịch Việt Nam theo
Điều 22.
Cho đến nay, trên cơ sở đề xuất của các UBND cấp tỉnh, Bộ
Tư pháp đã phối hợp với các Bộ ngành liên quan xem xét, báo cáo Chính phủ trình
Chủ tịch nước xem
xét, quyết định cho 4.414 người thuộc diện theo Điều 22 được nhập quốc tịch Việt Nam. Khi có quyết định của Chủ tịch nước về
việc cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với bà con, Bộ Tư pháp phối hợp với các
địa phương tiến hành các thủ tục sao quyết định, tổ chức lễ trao quyết định cho
bà con. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã trực tiếp trao quyết định cho bà
con tại tỉnh Kon Tum, một số địa phương như Sơn La, Điện Biên, Lạng Sơn, Thừa
Thiên Huế, Long An… và thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố đã trực tiếp trao quyết định cho người dân. Việc cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch thuộc đối
tượng này là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, đã làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của người được nhập quốc tịch đối với Nhà nước đồng thời cũng xác định
trách nhiệm của Nhà nước đối với người được nhập quốc tịch. Được nhận quyết
định của Chủ tịch nước cho nhập quốc tịch Việt Nam, bà con rất phấn khởi vì sẽ
có cơ sở pháp lý để tiến hành các thủ tục nhập hộ khẩu, xin cấp Giấy chứng minh
nhân dân, Hộ chiếu, giấy chứng nhận quyền sở hữu về tài sản…., có nhiều cơ hội
hơn trong cuộc sống, trong học tập, làm ăn và trong việc thực thi trách nhiệm
của công dân với Nhà nước. Chủ trương của Nhà nước, sự nỗ lực cao của các cơ
quan, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ
giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho người không quốc tịch đã tạo được lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, vấn đề
giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã
cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam được quy định tại Điều 22 còn có ý
nghĩa và tầm ảnh hưởng về mặt chính trị đối với các nước trong khu vực nói
riêng và trên thế giới nói chung. Một số nước và tổ chức quốc tế đã đánh giá
Việt Nam là quốc gia làm tốt nhất vấn đề quốc tịch cho người không quốc tịch so
với các nước trong khu vực, việc giải quyết cho những người không quốc tịch cư
trú ổn định theo Điều 22 được nhập quốc tịch Việt Nam theo thủ tục đơn giản,
miễn lệ phí thể hiện chính sách tiến bộ của Nhà nước Việt Nam, chứng tỏ vai trò
đi đầu của Việt Nam ở Châu Á, là mô hình tốt về công tác nhân đạo, hạn chế tình
trạng người không quốc tịch, đáng được nhân rộng và áp dụng cho chương trình ở
các nước khác trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
Việt Nam tham gia Công ước 1954 về Quy chế người không quốc tịch và Công ước
1961 về giảm tình trạng người không quốc tịch.
Trần Thị Tú