Vấn đề dân di cư ở khu vực
biên giới rất phức tạp. Hầu hết đối tượng này đều có cuộc sống khó khăn về kinh
tế, trình độ dân trí thấp, không có bất cứ giấy tờ gì để làm căn cứ xác định
nhân thân; quan niệm về hôn nhân còn đơn giản, nặng về phong tục, tập quán, con
sinh ra cũng không đăng ký khai sinh. Nhà nước ta cần có chính sách để từng bước
giải quyết vấn đề tồn đọng này và giúp đỡ những người dân di cư tự do sớm ổn định
cuộc sống.
1. Khái quát tình
hình di cư tự do ở vùng biên giới Việt Nam - Lào
Vấn đề người Lào, người Lào gốc Việt di cư tự do sang cư
trú ở các tỉnh giáp biên giới Việt Nam -
Lào là thực trạng đã tồn tại từ nhiều năm nay, tập trung chủ yếu ở 10 tỉnh có đường
biên giới Việt - Lào: Sơn La, Điện Biên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum. Theo số liệu tổng hợp thống kê sơ bộ
của Bộ Ngoại giao Việt Nam và Lào, đến nay có 7.066 người di cư tự do từ Việt
Nam sang Lào và 679 người kết hôn không giá thú với người Lào; có 4.535 người
từ Lào di cư sang Việt Nam và 1.385 người Lào kết hôn không giá thú với người
Việt Nam.
Nguyên nhân của tình trạng người Lào di cư tự do sang
Việt Nam và người Việt Nam di cư tự do
sang Lào là: dân cư hai bên biên giới có quan hệ họ hàng, thân tộc, có tập quán
du canh, du cư từ lâu đời; trình độ nhận thức về biên giới quốc gia, chủ quyền
lãnh thổ còn rất hạn chế; cơ sở hạ tầng, điều kiện làm ăn sinh sống rất khó
khăn, trong khi đó kinh tế, xã hội của Việt Nam và Lào đang ngày càng được cải
thiện, phát triển, vì vậy đã tác động đến những người dân của hai nước sống tại
các tỉnh giáp biên di cư tự do để làm ăn, sinh sống; mặt khác do thực hiện Hiệp
định về Quy chế biên giới Việt Nam-Lào
dẫn đến việc dịch chuyển dân cư giữa một số địa phương hai nước, phần lớn người
dân trước đây mà Việt Nam bàn giao cho Lào nay muốn quay trở lại Việt Nam cư
trú ổn định lâu dài, sum họp với dòng tộc và hưởng các chế độ ưu đãi của Việt
Nam (ví dụ như tình hình di cư ồ ạt từ Lào sang Quảng Trị hiện nay). Riêng số
dân di cư từ Lào sang Việt Nam hầu hết đều là những người lao động nghèo, có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nói thông thạo tiếng Việt, tiếng địa phương. Về cơ
bản họ đều chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
Việt Nam cũng như các quy định của địa phương, cần cù lao động sản xuất. Trong
số dân di cư tự do này có khoảng 4% đến 5% gia đình có công với cách mạng,
thuộc diện được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước Việt Nam. Số dân di cư từ
Lào sang Việt Nam đều có nguyện vọng được cư trú ổn định và làm ăn, sinh sống
lâu dài tại Việt Nam.
2. Giải quyết quốc
tịch đối với người di cư tự do và kết hôn không giá thú theo Thoả thuận giữa hai
Chính phủ Việt Nam - Lào và trên cơ sở Luật Quốc tịch Việt Nam.
Thực hiện Hiệp định
Quy chế biên giới quốc gia giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào, đồng thời trên tinh thần hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện của hai nước, Chính phủ hai nước đã đi đến ký kết Thoả thuận về
việc giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá
thú trong vùng biên giới hai nước vào ngày 08/7/2013. Theo đó, Chính phủ
sẽ xem xét việc nhập quốc tịch, đăng ký hộ tịch cũng như cấp các giấy tờ tuỳ thân
khác cho những người được phép cư trú.
Trên cơ sở nguyện
vọng của những người di cư tự do, Chính phủ hai nước sẽ xem xét cho phép họ được
nhập quốc tịch của nước mà họ đang cư trú, tiến hành các thủ tục để đăng ký hộ
tịch và cấp các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật mỗi nước. Chính phủ
hai nước thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc làm thủ tục để được
cấp các giấy tờ tuỳ thân. Hiện nay, Bộ Ngoại giao đang trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án thực hiện Thoả thuận này.
Để góp phần giải quyết tình trạng quốc tịch của dân di cư
tự do tại các địa phương, đặc biệt là dân di cư ở khu vực biên giới như đã nêu
trên, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã đưa ra quy định cho phép “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ
giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi
năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật
Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do
Chính phủ quy định” (Điều 22).
Với quy định này, những người không quốc tịch nói chung và
những người gốc Lào di cư sang Việt Nam nói riêng mà có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam đã cư trú ổn định trước ngày 01/01/2009 có thể vận dụng
cho họ được miễn lệ phí theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Thông tư số
146/2009/TT-BTC ngày 20/7/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp và
quản lý sử dụng lệ phí giải quyết các việc liên quan đến quốc tịch.
Tính đến nay, Bộ Tư pháp đã
giải quyết cho 4.414 người không quốc tịch sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được
nhập quốc tịch Việt Nam, trong đó có cả những người di cư tự do ở vùng biên
giới Việt Nam - Lào.
Như vậy, cùng với
những quy định của pháp luật Việt Nam, Thoả thuận về việc giải quyết vấn đề người di cư tự do về kết hôn không giá thú trong vùng
biên giới Việt Nam - Lào sẽ góp phần giải quyết cơ bản tình trạng di cư tự do ở
khu vực biên giới hai nước.
Lê Thị Tú Hồng