Theo cá nhân tôi, thì đăng ký xe không phải là đăng ký quyền sở hữu mà chỉ là đăng ký quyền sử dụng, tức là đăng ký lưu hành. Nói cách khác, nếu một người mua xe về chỉ là để cất trong nhà, không có mục đích để đi thì người đó không nhất thiết phải đăng ký xe. Nhưng nếu người đó muốn đưa xe tham gia giao thông thì phải có đăng ký xe. Mục đích của đăng ký xe là để cơ quan công an có thể quản lý xe tham gia giao thông, có thể tìm ra chủ xe trong trường hợp cần thiết như tai nạn…
Cơ sở của cách hiểu này xuất phát từ quy định hiện hành của pháp luật. Cụ thể, tại điểm c khoản 1 Điều 10 của Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 4/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe quy định khi làm thủ tục đăng ký xe, chủ xe phải có một trong những giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe là: “a) Quyết định bán, cho, tặng hoặc hợp đồng mua bán theo quy định của pháp luật; b)Văn bản thừa kế theo quy định của pháp luật; c)Hóa đơn bán hàng theo quy định của Bộ Tài chính; d) Văn bản của cấp có thẩm quyền đồng ý thanh lý xe theo quy định (đối với xe công an); của Bộ Tổng tham mưu (đối với xe quân đội); đ) Văn bản đồng ý cho bán xe của Bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc chủ tịch Hội đồng quản trị doanh nghiệp kèm theo hợp đồng mua bán và bản kê khai bàn giao tài sản đối với xe là tài sản của doanh nghiệp nhà nước được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê; e) Quyết định phân bổ, điều động xe của Bộ Công an (xe được trang cấp) hoặc chứng từ mua bán xe (xe do các cơ quan, đơn vị tự mua sắm) đối với xe máy chuyên dùng phục vụ mục đích an ninh của Công an nhân dân; g) Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực.”Như vậy, căn cứ quy định này của Thông tư số 15/2014/TT-BCA, có thể thấy Giấy chứng nhận đăng ký xe không phải là giấy tờ duy nhất chứng minh quyền sở hữu xe của chủ xe mà một trong những giấy tờ nêu tại khoản 1 Điều 10 nêu trên cũng là giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe của chủ xe. Mặt khác, tại Điều 9 của Thông tư này quy định khi đăng ký xe, phải có một trong các giấy tờ của “chủ xe” là: Chứng minh nhân dân/Sổ Hộ khẩu/Giấy giới thiệu/Thẻ học viên, sinh viên… Như vậy, thuật ngữ ‘chủ xe” do Thông tư 15/2014/TT-BCA sử dụng cũng đã cho thấy người có xe đã được thừa nhận quyền sở hữu ngay cả khi chưa làm thủ tục đăng ký xe.
Như vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, có thể khẳng định đăng ký xe chỉ là đăng ký sử dụng xe, không phải là đăng ký quyền sở hữu. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa Giấy chứng nhận đăng ký xe không có giá trị chứng minh quyền sở hữu xe của chủ xe. Hay nói cách khác, nếu không xuất trình được một trong các giấy tờ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 10 của Thông tư số 15/2014/TT-BCA nêu trên nhưng nếu chủ xe xuất trình được Giấy chứng nhận đăng ký xe thì vẫn được công nhận là chủ sở hữu xe. Bởi vì, khi thực hiện đăng ký xe, cơ quan Công an đã kiểm tra giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe của chủ xe. Vì vậy, có thể kết luận rằng: Giấy chứng nhận đăng ký xe là một trong những giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe, không phải là giấy tờ duy nhất. Vì vậy, khi yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch về mua bán xe, chủ xe có thể xuất trình Giấy chứng nhận đăng ký xe nếu có, nếu không thì có thể xuất trình một trong các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe quy định tại điểm c khoản 1 Điều 10 của Thông tư số 15/2014/TT-BCA.
Cách hiểu này vừa phù hợp với quy định của pháp luật và vừa phù hợp với thực tiễn, từ đó có thể giải quyết được nhiều tình huống phát sinh trong đời sống như: Một người mới mua xe về nhưng vì một lý do nào đó, lại muốn bán đi ngay dù chưa kịp đăng ký; có người mua nhiều xe với mục đích để bán chứ không phải để đi… Nếu hiểu đăng ký xe là đăng ký sở hữu và khi công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch về xe, người có thẩm quyền công chứng, chứng thực nhất thiết đòi hỏi phải có Giấy chứng nhận đăng ký xe thì sẽ gây rất nhiều ách tắc trong thực tế./.
Nguyễn Thu Hương