Một trong những băn khoăn, vướng mắc hiện nay của người thực hiện chứng thực là phân biệt hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền: tức khi nào thì một việc phải được lập thành hợp đồng ủy quyền và khi nào thì chỉ cần lập thành giấy ủy quyền? Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực thì: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng” và tại khoản 2 của Điều này quy định: “Việc ủy quyền không thuộc trường hợp quy định nêu trên thì có thể được lập thành giấy ủy quyền và chỉ cần người ủy quyền ký vào giấy ủy quyền”. Như vậy, có thể thấy nội dung của Điều 48 này đã xác định rõ tiêu chí phân biệt hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền. Tuy nhiên, do các tiêu chí này còn chưa phù hợp với thực tế, vì vậy, thời gian qua nhiều người thực hiện chứng thực không dám mạnh dạn căn cứ vào quy định này để thực hiện. VD: đối với việc ủy quyền cho người khác khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất/đòi bồi thường thiệt hại hoặc ủy quyền cho người khác nhận một món hàng là động sản có giá trị rất lớn… nếu căn cứ quy định tại Điều 48 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì những trường hợp này chỉ cần lập thành giấy ủy quyền (nếu các bên không thỏa thuận có thù lao/nghĩa vụ bồi thường thiệt hại) vì các trường hợp ủy quyền này không để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản. Tuy nhiên, do trên thực tế, đây là loại việc phức tạp/liên quan đến tài sản có giá trị lớn nên người thực hiện chứng thực vẫn thường yêu cầu phải lập thành hợp đồng ủy quyền. Vì vậy, để giải quyết vướng mắc này, thiết nghĩ pháp luật nên quy định theo hướng phù hợp với thực tế hơn để người thực hiện chứng thực dễ áp dụng: Đó là chỉ với những việc ủy quyền đơn giản, liên quan đến tài sản có giá trị dưới 50 triệu đồng thì mới được thực hiện chứng thực theo thủ tục chứng thực giấy ủy quyền (VD: ủy quyền lĩnh hộ lương hưu, trợ cấp, bưu phẩm…) các trường hợp còn lại phải được thực hiện theo thủ tục chứng thực hợp đồng ủy quyền.
2. Về thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền: Do có sự mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực nên hiện nay rất nhiều người, thậm chí người làm công tác chứng thực cũng nhầm lẫn trong việc xác định thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền. Bởi vì, nếu chỉ căn cứ quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, nếu kết hợp cả quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP với Luật Đất đai, Luật Nhà ở thì việc xác định thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền cũng hết sức phức tạp, cụ thể:
+ UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền liên quan đến quyền sử dụng đất (không phân biệt đất ở nông thôn hay đô thị) và có thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền liên quan đến quyền sở hữu nhà ở tại nông thôn.
+ UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền liên quan đến nhà ở tại đô thị và có thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền liên quan đến động sản có giá dưới 50 triệu đồng.
+ Tổ chức hành nghề công chứng có thẩm quyền chứng thực các hợp đồng ủy quyền thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã, UBND cấp huyện và hợp đồng ủy quyền liên quan đến động sản có giá trị trên 50 triệu đồng.
Như vậy, sự phân định thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền theo quy định hiện hành là quá phức tạp một cách không cần thiết, không phù hợp với tính chất, yêu cầu của hợp đồng ủy quyền. Trong khi đó, tính chất của hợp đồng ủy quyền là tạo sự linh hoạt, thuận lợi cho người có tài sản muốn thực hiện giao dịch nhưng không có điều kiện trực tiếp thực hiện giao dịch đó (do khoảng cách địa lý, do điều kiện sức khỏe, thời gian…).
Bên cạnh đó, thẩm quyền chứng thực hợp đồng ủy quyền liên quan đến bất động sản có phải tuân theo thẩm quyền địa hạt không hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau do pháp luật chứng thực và pháp luật có liên quan chưa quy định rõ ràng về vấn đề này.
3. Về ủy quyền lại cho người thứ ba: Do pháp luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực trong việc thực hiện chứng thực hợp đồng ủy quyền lại. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, do việc ủy quyền là quyền dân sự của mỗi cá nhân, do đó ý chí của cá nhân đó được tôn trọng tối thượng. Vì vậy, nếu trong hợp đồng ủy quyền (tạm gọi là “lần đầu”) bên ủy quyền cho phép bên nhận ủy quyền được ủy quyền lại cho người thứ ba thì người đó mới được ủy quyền lại. Còn nếu trong hợp đồng ủy quyền (lần đầu) không đề cập đến vấn đề này thì không được ủy quyền lại.
4. Về trình tự, thủ tục chứng thực giấy ủy quyền: Do Nghị định số 75/2000/NĐ-CP cũng chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục chứng thực giấy ủy quyền, vì vậy đã gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực khi chứng thực giấy ủy quyền. Tạm thời, để tháo gỡ khó khăn, Bộ Tư pháp đã có Công văn hướng dẫn theo hướng việc chứng thực giấy ủy quyền có thể được thực hiện theo thủ tục chứng thực chữ ký. Hướng dẫn này đã tạo thuận lợi cho việc chứng thực giấy ủy quyền. Hiện nay, dự thảo Nghị định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (đang trình Chính phủ ban hành) cũng có quy định theo hướng cho phép chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền./.
Nguyễn Thu Hương