- Thứ nhất, tạo áp lực nặng nề cho người thực hiện chứng thực trong thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch. Nếu như để được bổ nhiệm công chứng viên, ứng viên phải là người tốt nghiệp đại học về chuyên ngành Luật và phải trải qua lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng/thời gian tập sự hành nghề công chứng… và được bổ nhiệm chỉ để hành nghề duy nhất là công chứng (theo hướng chuyên nghiệp) và hành nghề ổn định, lâu dài (suốt đời) thì ngược lại, người được bầu/bổ nhiệm là cán bộ, công chức để thực hiện nhiệm vụ chứng thực tại UBND cấp huyện, cấp xã nhiều trường hợp không tốt nghiệp đại học về chuyên ngành Luật mà tốt nghiệp Đại học chuyên ngành khác hoặc Trung cấp… Mặt khác, cán bộ/công chức được bầu/bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ chính là quản lý nhà nước, nhiệm vụ chứng thực chỉ là kiêm nhiệm và tính chất của đội ngũ này lại thường xuyên biến động, thiếu ổn định do thường được luân chuyển, điều động công tác khác… Trong khi đó, hợp đồng, giao dịch (đặc biệt là hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản hoặc có giá trị lớn) thường là loại việc phức tạp, dễ nảy sinh tranh chấp, đòi hỏi người thực hiện chứng thực phải am hiểu sâu rộng về pháp luật và có kinh nghiệm thực tiễn thì mới có thể đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch này. Do đó, việc giao cho người thực hiện chứng thực một nhiệm vụ nặng nề là đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch tương tự như công chứng viên là chưa phù hợp với thực trạng tính chất, năng lực của đội ngũ này. Nếu quy định hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị pháp lý tương đương với hợp đồng, giao dịch được công chứng thì khi thực hiện chứng thực, người thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về tất cả các yếu tố đảm bảo hiệu lực của một hợp đồng, giao dịch như: thời gian, địa xác định tư cách chủ thể của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch điểm giao kết hợp đồng; tư cách chủ thể của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; tình trạng pháp lý của tài sản được giao dịch; nội dung thỏa thuận của các bên… Như vậy, khi chứng thực hợp đồng, giao dịch, trách nhiệm của người thực hiện chứng thực rất “nặng nề” so với tính chất, năng lực của đội ngũ này. Điều này dẫn đến tình trạng không đảm bảo chất lượng của hợp đồng, giao dịch được chứng thực. Mặt khác, do người thực hiện chứng thực cũng phải chịu trách nhiệm tương đương công chứng viên nên một số người thực hiện chứng thực lại có tâm lý quá thận trọng khi chứng thực hợp đồng, giao dịch, dẫn đến không đáp ứng tốt yêu cầu của người dân.
- Thứ hai, về mặt khoa học, nếu yêu cầu kết quả của hoạt động chứng thực phải tương đương với kết quả của hoạt động công chứng là không phù hợp với tính chất của hai hoạt động này. Nếu như công chứng là hoạt động chứng nhận tính xác thực, thì chứng thực là hoạt động xác nhận. Xét về mặt ngữ nghĩa, thì hai từ “chứng nhận” và “xác nhận” có khác nhau về mức độ cao thấp trong mối liên hệ với thực tế và khác nhau về quy trình thao tác. “Chứng nhận” có nghĩa là nhận cho để làm bằng là có, là đúng sự thật (Từ điển Tiếng Việt – NXB Đà Nẵng 1996). Để chứng nhận một sự việc, thông thường người chứng nhận phải qua một loạt thao tác kiểm tra, xác minh, đối chiếu.v.v… (VD: chứng nhận hợp đồng…). Còn “xác nhận” có nghĩa là thừa nhận là đúng sự thật. Thông thường, “xác nhận” chỉ mang tính chất bàn giấy (VD: xác nhận chữ ký, xác nhận lời khai…). Tóm lại, có thể hiểu là hành vi xác nhận có tính chất đơn giản hơn, ít phức tạp hơn hành vi chứng nhận. Nếu để thực hiện hành vi công chứng, công chứng viên phải thực hiện một chuỗi các thao tác như: xác định tư cách chủ thể của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; xác định đúng đối tượng của hợp đồng, giao dịch; giúp các bên trong hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, chính xác, đúng pháp luật; chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch …; nhưng để thực hiện hành vi chứng thực, người thực hiện chứng thực chỉ đơn thuần tiếp nhận, kiểm tra, đối chiếu… giấy tờ. Vì vậy, đối tượng của hành vi chứng thực chủ yếu là các giấy tờ (VD: chứng thực bản sao các giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ…). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi hoạt động chứng thực vẫn giữ một vị trí quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của người dân (đặc biệt tại những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kho khăn…) thì việc tìm ra một giải pháp phù hợp, vừa tạo thuận lợi cho người dân, vừa đảm bảo phù hợp với tính chất, năng lực của đội ngũ người thực hiện chứng thực là cần thiết. Nếu giao cho cơ quan thực hiện chứng thực nhiệm vụ chứng thực hợp đồng, giao dịch thì kết quả của hoạt động chứng thực (tức giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực) phải được cân nhắc so với kết quả của hoạt động công chứng (giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được công chứng). Hoạt động chứng thực có tính chất đơn giản hơn, do đó giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực cần được đánh giá đúng mức so với giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được công chứng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc quy định hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá trị được đảm bảo về mặt “hình thức” (không được đảm bảo về mặt “nội dung”) là cần thiết. Cụ thể, cần ban hành quy định mới theo hướng người thực hiện chứng thực chỉ chịu trách nhiệm về một số yếu tố mang tính “hình thức” của hợp đồng, giao dịch như: thời gian, địa điểm giao kết, năng lực hành vi dân sự, ý chí, chữ ký của các bên giao kết, còn nội dung của hợp đồng, giao dịch sẽ do các bên giao kết tự chịu trách nhiệm. Thực ra, việc chứng thực giá trị hình thức của hợp đồng không phải là một vấn đề mới mà đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Hiện nay, ở các nước theo hệ thống Anglo-sacxon như: Vương quốc Anh, các nước trong Liên hiệp Anh; Hoa Kỳ, Đan Mạch, Cannada, Ấn Độ…, khi thực hiện công chứng, các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của Giáo hội chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt “hình thức” của hợp đồng, giao dịch như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên hoặc ý chí của người yêu cầu công chứng, không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không chịu trách nhiệm về nội dung hợp đồng do đó hợp đồng không có giá trị cưỡng chế thi hành như một phán quyết của Tòa án mà chỉ được coi là nguồn chứng cứ trước Tòa, vẫn cần phải điều tra, xác minh.
Việc quy định hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá trị pháp lý về mặt “hình thức” sẽ đem đến những khía cạnh tích cực sau:
- Xác định đúng bản chất của hoạt động chứng thực, giảm áp lực trách nhiệm nghề nghiệp cho người thực hiện chứng thực; đảm bảo sự phù hợp giữa năng lực và trách nhiệm của người thực hiện chứng thực. Nếu quy định theo hướng này thì trách nhiệm của người thực hiện chứng thực sẽ được xác định ở mức độ phù hợp, vì vậy không tạo áp lực quá lớn đối với người thực hiện chứng thực khi thi hành công vụ. Trên thực tế, sau khi tiến hành lấy ý kiến góp ý của các địa phương về vấn đề này thì hầu hết người thực hiện chứng thực đều tán thành với phương án này.
- Đảm bảo sự phù hợp giữa kết quả của hoạt động chứng thực với tính chất của hoạt động chứng thực cũng như đảm bảo tính khoa học trong phân công công việc giữa hệ thống tổ chức hành nghề công chứng và hệ thống cơ quan thực hiện chứng thực.
- Giảm gánh nặng thủ tục hành chính cho người dân tại những địa phương là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn…, nơi hoạt động chứng thực của UBND cấp huyện, cấp xã vẫn rất cần thiết đối với người dân. Bởi vì, hiện nay tại những tỉnh, thành phố lớn, những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển…. thì đã có mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng đáp ứng yêu cầu của người dân. Khi chỉ chịu trách nhiệm về hình thức của hợp đồng thì những giấy tờ mà người thực hiện chứng thực đòi hỏi sẽ đơn giản hơn, thời gian chứng thực nhanh hơn. Mặt khác, dù người thực hiện chứng thực chỉ chứng thực các yếu tố mang tính hình thức của hợp đồng, giao dịch nhưng nếu không phát sinh tranh chấp thì hợp đồng, giao dịch được chứng thực vẫn có hiệu lực và các bên giao kết vẫn phải thi hành hợp đồng đó (tương tự như hợp đồng, giao dịch đã được người thực hiện chứng thực bảo đảm về mặt nội dung). Như vậy, chỉ cần hợp đồng, giao dịch được chứng thực (dù chỉ là chứng thực các yếu tố “hình thức” của hợp đồng, giao dịch) thì hợp đồng, giao dịch đó vẫn đảm bảo thỏa mãn điều kiện về mặt hình thức của hợp đồng, giao dịch (nếu pháp luật có liên quan quy định hợp đồng, giao dịch đó phải được “công chứng hoặc chứng thực”). Trên thực tế, chỉ khi xảy ra tranh chấp, thì sự khác biệt giữa hợp đồng, giao dịch được người thực hiện chứng thực đảm bảo về mặt “nội dung” và hợp đồng, giao dịch được người thực hiện chứng thực đảm bảo về mặt “hình thức” mới được xem xét và Tòa án sẽ căn cứ trên những nội dung được chứng thực cũng như thông qua hoạt động điều tra, xác minh và xem xét, cân nhắc các tình tiết, chứng cứ để đưa ra quyết định.
Chỉ có một băn khoăn lớn nhất khi lựa chọn phương án này, đó là hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị pháp lý thấp hơn hợp đồng, giao dịch được công chứng nên dễ gây tranh chấp, khiếu kiện, trong khi tại Việt Nam hệ thống Tòa án chưa đủ mạnh. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì thường tại những địa phương là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển… thì những hợp đồng, giao dịch thường không có giá trị quá lớn và tính chất quá phức tạp, vì vậy khả năng xảy ra tranh chấp cũng không nhiều, mặt khác, nếu có thì cũng không quá khó để giải quyết./.
Trần Hà