Nghiên cứu giao công chức Tư pháp - Hộ tịch thẩm quyền ký chứng thực - Biện pháp góp phần cải cách thủ tục hành chính

(12/01/2015)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực thì: “Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã phụ trách tư pháp thực hiện việc chứng thực quy định tại khoản 1 Điều này và phải đăng ký chữ ký tại Sở Tư pháp. Cán bộ Tư pháp cấp xã giúp Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chứng thực.” Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì: “Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 2 Điều này và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã”. Như vậy, kết hợp các quy định này (do Nghị định số 75/2000/NĐ-CP vẫn còn hiệu lực về phần chứng thực hợp đồng, giao dịch), có thể hiểu theo quy định hiện hành thì Chủ tịch/Phó Chủ tịch UBND cấp xã phụ trách tư pháp có thẩm quyền ký chứng thực các việc hợp đồng, giao dịch/bản sao/chữ ký; còn Phó Chủ tịch UBND cấp xã (không phụ trách tư pháp) có thẩm quyền ký chứng thực các việc bản sao, chữ ký.

Sự cần thiết phân định giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực với giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được công chứng

(07/01/2015)

Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực thì hợp đồng, giao dịch được chứng thực và hợp đồng, giao dịch được công chứng đều có giá trị pháp lý như nhau: đó là giá trị chứng cứ và giá trị thi hành đối với các bên giao kết. Sau đó, khi Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng (sửa đổi) năm 2014 được ban hành, vẫn giữ nguyên quy định về giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được công chứng, theo đó hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan và có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, thì hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị pháp lý tương đương với hợp đồng, giao dịch được công chứng. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy việc áp dụng quy định này đã gây ra một số tác động không tích cực đến hoạt động chứng thực, thể hiện trên một số khía cạnh sau:

Một số vấn đề về hoạt động chứng thực chữ ký người dịch

(04/01/2015)

Trong bối cảnh đất nước ta ngày càng mở rộng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì các giao lưu, giao dịch về dân sự, kinh tế, thương mại… giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cũng ngày càng gia tăng. Kéo theo đó, nhu cầu có bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài cũng phát sinh ngày càng nhiều. Trong đó, nhu cầu có bản dịch chính thức (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm trách nhiệm của người dịch về tính chính xác, đầy đủ của nội dung bản dịch) để phục vụ các giao dịch trong và ngoài nước, là hoàn toàn chính đáng. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ năm 1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh lãnh sự (24/11/1990) trong đó có quy định Viên chức lãnh sự có chức năng thực hiện chứng thực bản dịch. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ đáp ứng được nhu cầu chứng thực bản dịch của công dân Việt Nam ở nước ngoài, chưa đáp ứng được yêu cầu chứng thực bản dịch của người dân ở trong nước.

“Người người vào cuộc” “ngành ngành vào cuộc” là khí thế triển khai thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ tại các cơ quan, tổ chức ở thành phồ Cần Thơ

(26/12/2014)

Theo quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì: “1. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. 2. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao không có chứng thực có quyền yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người đối chiếu phải ký xác nhận vào bản sao và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính”.

Quảng Bình - Một trong những địa phương tiên phong trong công tác chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực

(22/12/2014)

Qua công tác kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính tại một số địa phương cho thấy Quảng Bình là một trong những địa phương thực hiện nghiêm túc, bài bản công tác chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực theo nội dung Chỉ thị 17/CT-TTg và Quyết định số 1049/QĐ-BTP ngày 20/8/2014 của Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị này. Ngày 15/7/2014, Sở Tư pháp tỉnh Quản Bình đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Công văn số 878/UBND-NC về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh. Theo đó UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và thực hiện nghiêm túc quy định tại Điều 6 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính; rà soát các văn bản do HĐND, UBND các cấp ban hành hoặc văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành có quy định về thủ tục hành chính trái với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền; giao Sở Tư pháp có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg trên địa bàn tỉnh.

Đi tìm nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực

(15/12/2014)

Bản sao có chứng thực là bản sao được cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. Như vậy, bản sao được chứng thực từ bản chính là bản sao đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đảm bảo độ chính xác của bản sao so với bản chính, tạo sự yên tâm, tin tưởng cho cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao. Với giá trị đó, nếu được sử dụng một cách hợp lý, “đúng lúc đúng chỗ”, bản sao có chứng thực sẽ tạo sự thuận lợi, tiết kiệm cho người dân và xã hội (VD: trong trường hợp người nộp hồ sơ ở xa thì không cần phải đến tận nơi để nộp, mà chỉ cần nộp qua đường bưu điện mà vẫn đảm bảo độ tin cậy của hồ sơ…).

Công tác chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực tại Nam Định

(11/12/2014)

Nam Định là một tỉnh lớn với 2 triệu dân nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Ở Nam Định có nhiều khu công nghiệp cũng như nhiều trường Đại học, Cao Đẳng… vì vậy việc sử dụng bản sao có chứng thực tại Nam Định là khá lớn. Theo số liệu thống kê, năm 2013 các UBND cấp huyện, cấp xã tại Nam Định đã chứng thực 836.304 bản sao (trong đó bản sao bằng tiếng Việt là 836.182). Con số này cho thấy hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính tại Nam Định ở mức tương đối lớn so với toàn quốc. Chính vì vậy, trong Chương trình kiểm tra việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính tại một số tỉnh, thành, Bộ Tư pháp đã lựa chọn Nam Định là một trong những địa bàn để tiến hành kiểm tra việc triển khai thực hiện Chỉ thị này.

Xác định" bản chính" trong hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính

(27/11/2014)

Hiện nay, do chưa hiểu thấu đáo và nắm chắc các quy định về chứng thực bản sao từ bản chính của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và các văn bản có liên quan, vì vậy một số người thực hiện chứng thực còn lúng trong việc xác định “bản chính” đủ điều kiện để được sao trong hoạt động chứng thực bản sao.

Một số vướng mắc trong hoạt động chứng thực hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền

(19/11/2014)

1.Về phân biệt hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền:

Một số vướng mắc trong hoạt động chứng thực chữ ký

(18/11/2014)

Hiện nay, trong quá trình áp dụng các quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, hoạt động chứng thực chữ ký trên thực tế còn gặp một số vướng mắc sau cần được khắc phục, cụ thể là:

Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang