(15/03/2016)
Hiện nay, theo quy định hiện hành thì không phải bất kỳ sự xác nhận nào của chính quyền cũng được coi là hoạt động chứng thực mà phạm vi của hoạt động chứng thực chỉ giới hạn đối với ba loại việc: chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
(11/03/2016)
Do đặc điểm của nước ta là từ một nước phong kiến đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, có thể khẳng định dưới chế độ phong kiến trước đây, hoạt động chứng thực chính thống (với cách hiểu như hiện nay) là chưa xuất hiện. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng các hoạt động có tính chất xác nhận, xác thực… của chính quyền vẫn tồn tại ở nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây như một nhu cầu tất yếu của quản lý xã hội.
(20/01/2016)
Ngày 16 tháng 02 năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/4/2015. Cho đến nay, việc triển khai thi hành các quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã dần đi vào nề nếp. Tuy nhiên, sau hơn 7 tháng triển khai thi hành Nghị định, đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc liên quan đến một số quy định trong Nghị định cần tiếp tục được quy định chi tiết nhằm tạo thuận lợi cho người dân trong việc tìm hiểu pháp luật về chứng thực, cũng như cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, ngày 29/12/2015 Bộ Tư pháp đã ký ban hành Thông tư số 20/2015/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/02/2016 và thay thế Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25 tháng 8 năm 2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14 tháng 3 năm 2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực; Điều 2 Thông tư số 19/2011/TT-BTP ngày 31 tháng 10 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục hành chính của Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày 23 tháng 9 năm 2008, Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25 tháng 8 năm 2008 và Thông tư số 01/2010/TT-BTP ngày 09 tháng 02 năm 2010 của Bộ Tư pháp.
(14/10/2015)
Sơ yếu lý lịch là giấy tờ chứa đựng các thông tin cá nhân của người khai lý lịch, như sự sinh trưởng phát triển của bản thân, các quan hệ gia đình và một số nội dung về nhân thân của bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em. Trước ngày 15/3/2014, sơ yếu lý lịch dành cho người lao động có hai mẫu chính thức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Thứ nhất, đối với cán bộ công chức thì sử dụng sơ yếu lý lịch theo mẫu số 2c ban hành kèm theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BNV ngày 06/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và cán bộ công chức xin xác nhận tại cơ quan quản lý hồ sơ cán bộ công chức. Thứ hai, đối với người lao động chưa được cấp sổ lao động thì sử dụng Sơ yếu lý lịch mẫu số 2 ban hành kèm theo Thông tư số 20/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22/9/2003 của Bộ Lao động và thương binh xã hội hướng dẫn thi hành Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ về tuyển lao động và phải xin xác nhận của Thủ trưởng cơ quan hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
(14/10/2015)
Căn cứ Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2015 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, ngày 13/6/2006, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 về hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT). Thông tư liên tịch này hướng dẫn trình tự thủ tục, các mẫu phiếu khi công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất.
(12/10/2015)
Trong các ngày 28,29,30/09/2015 và 01/10/2015, Sở Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; nghiệp vụ về chứng thực và Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi.
(29/09/2015)
Trong 02 ngày 26-27/9/2015, tại huyện Đầm Hà và thành phố Hạ Long, Sở Tư pháp đã tổ chức 02 hội nghị tập huấn chuyên sâu Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch cho Lãnh đạo UBND cấp huyện, cấp xã; cán bộ, công chức phòng Tư pháp; Công chức Tư pháp – Hộ tịch và các tổ chức hành nghề công chứng. Đồng chí Dương Thái Sơn - Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp chủ trì Hội nghị.
(08/09/2015)
Về bản chất, chứng thực chính là sự xác nhận. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của pháp luật về chứng thực theo nghĩa hẹp thì không phải bất kỳ sự xác nhận nào cũng được coi là hoạt động chứng thực mà phạm vi hoạt động chứng thực chỉ giới hạn đối với ba loại việc: chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Như vậy, chứng thực là hoạt động xác nhận. Bản chất của hoạt động chứng thực là hoạt động mang tính chất thị thực hành chính của cơ quan hành chính công quyền (hoặc tổ chức, cá nhân đặc biệt được Nhà nước ủy quyền), là một dịch vụ hành chính công. Thông qua hoạt động chứng thực, Nhà nước cung cấp dịch vụ nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tạo lập giá trị pháp lý cho các giấy tờ, văn bản phục vụ việc thực hiện thủ tục hành chính của người dân. Chủ thể của hoạt động chứng thực là cán bộ, công chức hoặc cá nhân được nhà nước ủy quyền. Như vậy, hoạt động chứng thực luôn gắn chặt với vai trò của quyền lực công. Hành vi chứng thực là hành vi hành chính.
Xuất phát từ bản chất như vậy nên có thể thấy pháp luật về chứng thực có vị trí, vai trò như sau: