Sau
hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị định số 79/2007/NĐ-CP,
hoạt động chứng thực chữ ký người
dịch đã đạt được những kết quả nhất định, tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết
kịp thời nhu cầu chứng thực cho tổ chức, cá nhân; đồng thời là tiền đề cho sự ra đời một đội ngũ cộng tác viên dịch
thuật của các Phòng công chứng trước đây và nay là cộng tác viên của các cơ
quan thực hiện chứng thực (Phòng Tư pháp cấp huyện).
Việc phân cấp thẩm quyền chứng thực chữ ký người dịch
giấy tờ, văn bản cho Phòng Tư pháp cấp huyện đã mở rộng đáng kể hệ thống cơ
quan có thẩm quyền chứng thực; đáp ứng cơ bản yêu cầu của cá nhân, tổ chức;
Việc đơn giản hoá về
trình tự, thủ tục; rút ngắn thời gian giải quyết đã đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các
cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch.
Tuy nhiên,
hoạt động chứng thực chữ ký người dịch vẫn còn bộc lộ những vướng mắc, bất cập, hạn chế như:
Thứ nhất, tuy đã thực hiện được
gần 20 năm, kể từ khi chế định chứng thực chữ ký người dịch được hình thành, nhưng
đến nay pháp luật về chứng thực chữ ký người dịch trong bản dịch không thay đổi
nhiều. Quy định của các văn bản này chủ
yếu chỉ tập trung quy định về trình tự, thủ tục chứng thực chữ ký người dịch
trong bản dịch, điều kiện của người dịch mà chưa có quy định nhằm xây dựng,
phát triển và quản lý đội ngũ người dịch theo hướng chuyên nghiệp.
Thứ hai, Nghị định số
79/2007/NĐ-CP chưa có quy định để kiểm soát chất lượng bản dịch. Mặc dù Nghị định
số 79/2007/NĐ-CP và các văn bản trước đó có quy định về tiêu chuẩn người dịch
(phải có bằng cấp về ngoại ngữ), song trên thực tế, tình trạng dịch sai sót, nhầm
lẫn, không thống nhất, không đầy đủ, không chính xác vẫn còn xảy ra nhiều. Nguyên
nhân của tình trạng này là do Nghị định số 79/2007/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn, điều
kiện của người dịch khá đơn giản, người dịch chỉ cần thông thạo tiếng nước ngoài
cần dịch. Điều này tuy tạo thuận lợi cho người dân trong việc lựa chọn người dịch,
song chất lượng của bản dịch, lợi ích của người yêu cầu dịch thuật nhiều khi không
được bảo đảm.
Thứ ba, đối với một số ngôn
ngữ nước ngoài không phổ biến hoặc ở những địa phương thuộc khu vực biên giới,
vùng sâu, vùng xa, việc tìm kiếm người dịch rất khó khăn. Thực tế tuy có người
thông thạo ngoại ngữ đó, nhưng không có bằng cấp theo quy định của pháp luật,
nên việc chứng thực chữ ký của họ trên bản dịch không thực hiện được.
Nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay, theo chúng
tôi cần xây dựng một cơ chế để quản lý đội ngũ người dịch. Theo đó, có quy định
cụ thể, chặt chẽ về điều kiện người dịch như: phải có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, có bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên tương
ứng với ngôn ngữ đăng ký dịch thuật do cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam hoặc
bằng tốt nghiệp đại học do cơ sở giáo dục đại học của nước ngoài cấp và được Bộ
Giáo dục và đào tạo công nhận và đặc biệt là người đó phải đạt yêu cầu kiểm tra
trình độ dịch thuật và được cấp chứng chỉ hành nghề dịch thuật.
Vậy, cơ chế để kiểm tra trình độ dịch thuật và cấp chứng
thỉ hành nghề dịch thuật sẽ được thực hiện như thế nào? Kinh nghiệm của nhiều nước
cho thấy, để được cấp phép dịch thuật, người có nhu cầu trở thành người dịch phải
trải qua kỳ kiểm tra trình độ dịch thuật, nếu đạt kết quả của kỳ thi kiểm tra
thì được cấp phép hành nghề; sau khi được cấp phép thì phải hành nghề trong một
tổ chức có tư cách pháp nhân. Còn ở nước ta hiện nay việc kiểm tra năng lực, trình
độ của người dịch còn bị bỏ ngỏ. Do vậy, để thực hiện cơ chế này, đồng thời
nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với công tác dịch thuật trong lĩnh vực
chứng thực, cần có quy định về việc cấp chứng chỉ hành nghề dịch thuật, người đề
nghị cấp phải nộp hồ sơ và qua kỳ kiểm tra trình độ dịch thuật. Việc kiểm tra
trình độ dịch thuật do Hội đồng kiểm tra trình độ dịch thuật (do Bộ Tư pháp
thành lập) thực hiện. Người đạt yêu cầu kiểm tra trình độ dịch thuật được Bộ trưởng
Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề dịch thuật. Bộ Tư pháp lập và công bố danh
sách người dịch để thông báo công khai cho các cơ quan, tổ chức và người dân
biết.
Việc hình thành được một cơ chế để quản lý về hoạt động dịch
thuật trong lĩnh vực chứng thực như nêu trên sẽ tạo tiền đề quan trọng để hình
thành đội ngũ người dịch có năng lực, trình độ, có đạo đức nghề nghiệp; từng bước
phát triển dịch vụ dịnh thuật chuyên nghiệp, có chất lượng trong lĩnh vực chứng
thực, tạo sự yên tâm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng giấy tờ,
tài liệu, đồng thời góp phần quan trọng trong việc bảo đảm các quyền của công dân./.
Thảo Giang