(15/11/2013)
Hoạt động dịch thuật nói chung đã xuất hiện từ lâu ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Nhà nước ta đã ban hành pháp luật để quy định về việc chứng nhận bản dịch, chứng nhận chữ ký người dịch (Pháp lệnh lãnh sự ngày 24 tháng 11 năm 1990 đã quy định Viên chức lãnh sự thực hiện chứng thực bản dịch). Đến ngày 27 tháng 2 năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trong đó có quy định về chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ, tài liệu. Tiếp đó, Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, cũng đều có các quy định về công chứng bản dịch. Thực hiện chủ trương tách bạch giữa hoạt động công chứng và chứng thực, Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng (Luật số 82/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006). Theo đó, Công chứng được xác định là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản. Các hoạt động khác như công chứng bản sao từ bản chính, công chứng bản dịch giấy tờ theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực được giao cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Các thẩm quyền này được quy định cụ thể trong Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Như vậy, từ việc các Phòng Công chứng thực hiện công chứng bản dịch giấy tờ thì từ năm 2007 đến nay các Phòng Tư pháp có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực chữ ký người dịch.