Là quốc gia đầu tiên ở châu Á và quốc gia thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước này[1], Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp và nội luật hoá quy định của Công ước trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em (năm 2004). Nhằm bảo đảm quyền đăng ký khai sinh, xác định quốc tịch và quyền được xác định cha, mẹ của trẻ em, thực thi đúng tinh thần của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch, góp phần thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trong những năm qua, hệ thống pháp luật về đăng ký khai sinh cho trẻ em nói riêng, đăng ký hộ tịch nói chung đã được xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký hộ tịch.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký hộ tịch, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện các quyền của trẻ em
Đăng ký khai sinh là việc Nhà nước ghi nhận sự ra đời, tồn tại của trẻ em, ghi nhận các thông tin hộ tịch cơ bản nhất của con người bao gồm: họ, tên, ngày tháng năm sinh, dân tộc, quốc tịch, họ tên cha, mẹ …, là cơ sở để xác lập các quyền nhân thân khác của cá nhân. Việc đăng ký khai sinh có thể nói là sự kiện hộ tịch quan trọng “hàng đầu” của mỗi cá nhân, ngoài việc khẳng định họ tên, xác định cha, mẹ, mà còn xác định đúng dân tộc, quốc tịch của trẻ em, xác lập mối quan hệ đúng giữa trẻ em và Nhà nước mà trẻ được xác định là công dân. Việc thực hiện việc đăng ký khai sinh chính xác, thuận lợi sẽ giúp cho trẻ em thực hiện được các quyền lợi khác trong cuộc sống sau này. Chính vì vậy, từ năm 2004 đến nay, Nhà nước ta đã quan tâm, triển khai ban hành, hoàn thiện các văn bản điều chỉnh hoạt động này, cụ thể:
- Thay thế Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch, với nhiều quy định mở rộng về thẩm quyền đăng ký khai sinh, đơn giản về hồ sơ, thủ tục, rút ngắn về thời gian giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con; tiếp đó là Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có các quy định hướng dẫn giải quyết việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực, trong đó quy định sửa đổi theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ người có yêu cầu phải nộp/xuất trình khi thực hiện đăng ký hộ tịch (bao gồm cả đăng ký khai sinh); Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (thay thế Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP).
- Hướng dẫn chi tiết thực hiện các Nghị định của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP; Thông tư số 22/2013/TT-BTP ngày 31/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP; phối hợp với Bộ Ngoại giao ban hành Thông tư liên tịch số 11/2008/TTLT-BTP-BNG ngày 31/12/20058 hướng dẫn thực hiện quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch tại các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, bảo đảm quyền đăng ký khai sinh của trẻ em sinh ra tại Việt Nam hoặc nước ngoài, có liên quan đến người nước ngoài, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Công an, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên thông thủ tục hành chính: đăng ký khai sinh - đăng ký cư trú - cấp Thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền khai sinh, quyền cư trú và quyền được khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em.
- Trong lộ trình hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý, thống nhất các quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội khoá XIII thông qua Luật hộ tịch (ngày 20/11/2014), với nhiều quy định mang tính đột phá, bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch của công dân nói chung và quyền đăng ký hộ tịch của trẻ em nói riêng, bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác quản lý của cơ quan đăng ký hộ tịch.
Tham gia các hoạt động liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em
Với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác đăng ký hộ tịch, trong đó có hoạt động đăng ký khai sinh cho trẻ em, từ năm 2005 đến nay, nhằm nâng cao tỷ lệ trẻ em được đăng ký khai sinh đúng hạn, hạn chế đến mức thấp nhất trẻ em không được đăng ký khai sinh, đặc biệt là số trẻ em không được đăng ký khai sinh trước độ tuổi đến trường phổ thông, Bộ Tư pháp đã tham gia và triển khai nhiều hoạt động liên quan đến việc khảo sát, đánh giá đăng ký khai sinh, đề xuất và thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả đăng ký khai sinh cho trẻ em, như:
- Tập huấn nghiệp vụ về đăng ký và quản lý hộ tịch cho công chức Tư pháp - hộ tịch cấp xã, cán bộ làm công tác hộ tịch của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký hộ tịch, đặc biệt là nâng cao nhận thức của người dân về quyền, trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em, các hệ quả có lợi/bất lợi của việc đăng ký khai sinh/không đăng ký khai sinh cho trẻ em;
- Tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Dự án tăng cường hệ thống bảo vệ trẻ em do Unicef tài trợ, thống kê số liệu đăng ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[2].
- Khảo sát, đánh giá về tình hình đăng ký hộ tịch tại địa bàn các tỉnh có đường biên giới với Lào, đề xuất và triển khai việc xây dựng Thông tư hướng dẫn điều kiện, trình tự thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam, đăng ký khai sinh, kết hôn cho người di cư tại các huyện của Việt Nam tiếp giáp đường biên giới với Lào; xây dựng Tiểu đề án “Giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tuỳ thân cho người di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam”, trong đó có số lượng không nhỏ trẻ em chưa được đăng ký khai sinh.
Kết quả đăng ký khai sinh cho trẻ em
Với việc triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; hoàn thiện thể chế và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch, tình hình đăng ký khai sinh cho trẻ em trên toàn quốc từ năm 2005 đến nay đã có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ trẻ em đến độ tuổi đến trường mà chưa được đăng ký khai sinh đã giảm đáng kể[3], tỷ lệ trẻ em đăng ký khai sinh đúng thời hạn (trong thời gian 60 ngày kể từ ngày sinh) đã tăng dần theo thời gian: Nếu giai đoạn trước năm 2000, tỷ lệ đăng ký khai sinh chỉ đạt 72,24% (tại thành thị, tỷ lệ này là 91,47%, tại nông thôn là 67,78%)[1]; giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006, tỷ lệ này đã tăng tương ứng là: 87,6% (ở thành thị là: 94,3%, ở nông thôn là 85,6%); thì đến giai đoạn gần đây, số trẻ em sinh ra được đăng ký khai sinh đã đạt tỉ lệ khá cao (ước bình quân trên toàn quốc đạt khoảng 95%, riêng khu vực thành thành thị đạt khoảng 98%).
Đây là một kết quả đáng ghi nhận của Việt Nam trong cố gắng bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền đăng ký khai sinh của trẻ em nói riêng. Với nhiều quy định mang tính cải cách mạnh mẽ như quy định rõ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em mà cha, mẹ không có nơi đăng ký thường trú, đăng ký khai sinh cho trẻ em tại nơi tạm trú của người mẹ (trong trường hợp người mẹ sinh sống, làm việc tại nơi khác nơi đăng ký thường trú), quy định về các loại giấy tờ có giá trị thay thế cho giấy chứng sinh, cho phép người đi đăng ký khai sinh làm cam đoan về việc sinh, đơn giản đến mức tối đa giấy tờ phải nộp/xuất trình (có trường hợp người đi đăng ký khai sinh không phải xuất trình cả Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu và Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ), giảm thời hạn đăng ký khai sinh, quy định nguyên tắc về việc tổ chức đăng ký khai sinh lưu động... pháp luật về đăng ký hộ tịch thực sự đã góp phần có hiệu quả vào kết quả thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Trong thời gian tới, với việc triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trẻ em Việt Nam sẽ được bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch nói riêng, quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục nói chung.
[1] Việt Nam ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày 26-1-1990 và phê chuẩn ngày 20-2-1990 (theo Nghị quyết số 241/NQ-HĐNN ngày 20-2-1990 của Hội đồng Nhà nước), là nước thứ 2 trên Thế giới phê chuẩn Công ước (sau Gana).
[2] Gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Kon Tum, Gia Lai, Đồng Tháp, Ninh Thuận, An Giang, Lào Cai, Điện Biên.
[3] Bao gồm cả trẻ em sinh ra ở Việt Nam và trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có cha/mẹ là công dân Việt Nam, được đưa về sinh sống tại Việt Nam.
Gia Khoa