Thẩm định Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2018

(26/12/2018)

Ngày 25/12/2018, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh đã chủ trì cuộc họp Hội đồng thẩm định Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa bổ, bổ sung Nghị định số 78/2009/NĐ-CP). Việc sửa đổi, bổ sung này là cần thiết để giải quyết trước mắt những vướng mắc, khó khăn trong việc giải quyết hồ sơ quốc tịch và thống nhất quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch.

Báo cáo với Hội đồng thẩm định, Cục trưởng Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực Nguyễn Công Khanh cho biết: Sau gần 9 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 78/2009/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý để cụ thể hóa và tăng cường quản lý nhà nước, thống nhất quy trình giải quyết các hồ sơ quốc tịch, giải quyết kịp thời các yêu cầu xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế cơ bản. Trong đó, nổi bật là một số quy định mang tính nguyên tắc của Luật Quốc tịch Việt Nam chưa được hướng dẫn, cụ thể hóa trong Nghị định số 78/2009/NĐ-CP, nên dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau, nhất là quy định về “trường hợp đặc biệt” theo khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam. Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống pháp luật gần đây dẫn tới một số quy định của Nghị định số 78/2009/NĐ-CP không còn phù hợp, thiếu đồng bộ; cùng với việc có nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch Việt Nam dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng, thực hiện.



Việc xây dựng dự thảo Nghị định nhằm tạo cơ sở pháp lý để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác quốc tịch, hướng tới thực hiện tốt các quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam trong tình hình mới, đảm bảo tính minh bạch trong thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức dễ dàng thực hiện thủ tục hành chính liên quan đến quốc tịch và đảm bảo nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tịch Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua.
 

Dự thảo Nghị định gồm 5 chương, 36 điều với những nội dung mới cơ bản như sau: (i) bổ sung quy định nhằm thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật đối với người có quốc tịch Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài; (ii) bổ sung quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác quốc tịch, nhằm răn đe và tạo cơ sở pháp lý để áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc tịch; (iii) quy định rõ hơn về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc xem xét  trình hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 21 Luật quốc tịch Việt Nam… Đặc biệt, dự thảo Nghị định đã bổ sung quy định nhằm cụ thể hóa, hướng dẫn chi tiết hơn về điều kiện xin nhập quốc tịch Việt Nam và xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam để thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật. Theo đó, Bộ Tư pháp đưa ra hai phương án:
Phương án 1: quy định rõ thế nào là “trường hợp đặc biệt” để có thể được xem xét cho giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam (tại Điều 9 dự thảo Nghị định).
Phương án 2: Xác định đây là thẩm quyền đặc biệt của Chủ tịch nước (giống như trong một số nhiệm vụ khác như đặc xá, xét đơn xin ân xá...), Chủ tịch nước sẽ quyết định cho phép một người được nhập quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài, nên dự thảo Nghị định không quy định thế nào là “trường hợp đặc biệt” mà chỉ quy định làm rõ hơn việc công dân nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam và giữ quốc tịch nước ngoài thì phải hội đủ 03 tầng điều kiện: (1) thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam, (2) trong trường hợp đặc biệt, (3) được Chủ tịch nước cho phép.
 

Các thành viên Hội đồng thẩm định đã lắng nghe phần trình bày của Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực) và góp ý kiến cụ thể vào một số nội dung của dự thảo Nghị định. Theo đó, Hội đồng thẩm định về cơ bản nhất trí với nhiều nội dung của dự thảo Nghị định và phương án 1 tại Điều 9 của dự thảo Nghị định nhưng đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện thêm để đảm bảo sự rõ ràng, rành mạch và thống nhất cách hiểu của các quy định trong dự thảo Nghị định. Bên cạnh đó, đại diện Văn phòng Chính phủ và Vụ Pháp luật quốc tế (Bộ Tư pháp) đều lưu ý đến những hệ quả pháp lý của vấn đề hai quốc tịch. Theo đó, cần xác định rõ và lường trước các hệ quả pháp lý của các trường hợp một cá nhân có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài, đặc biệt như các vụ việc về đầu tư, mua bán bất động sản nổi lên gần đây.



Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh nhấn mạnh, pháp luật về quốc tịch của nước ta từ trước đến nay đều nhất quán nguyên tắc một quốc tịch, đối với Luật Quốc tịch năm 2008 có quy định mang tính “mềm dẻo” hơn nhưng về cơ bản vẫn đảm bảo nguyên tắc này. Trong tình hình mới hiện nay, Nhà nước ta cũng đã rất quan tâm nhằm giải quyết nhu cầu chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài về quốc tịch. Thứ trưởng cũng đề nghị đơn vị chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của Hội đồng thẩm định.


 

Vũ Thu Hằng


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang