I. SỰ CẦN THIẾT
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào hệ thống đăng ký các thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân, tạo cơ sở để xác lập mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước (quan hệ Nhà nước – công dân), là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự khác của mình. Thông tin hộ tịch cơ bản, sau khi được đăng ký, trở thành dữ liệu đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Vì thế, theo Luật hộ tịch, đây là dữ liệu gốc, mang tính nguồn hoặc tính đối chiếu xác thực của bất kỳ hệ thống cơ sở dữ liệu nào liên quan đến dân cư.
Trong bối cảnh hiện nay, khoa học công nghệ phát triển nhanh và mạnh, yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giải quyết thủ tục hành chính, nhu cầu về khai thác, quản lý, sử dụng các thông tin hộ tịch cá nhân của các ngành, lĩnh vực khác ngày càng tăng. Do đó đòi hỏi ngày càng cao về quy mô dữ liệu, tốc độ đáp ứng và tính khoa học, đồng bộ. Các ngành, lĩnh vực khác cũng đang đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Vì vậy, việc đăng ký và quản lý các thông tin hộ tịch của cá nhân (đăng ký và quản lý hộ tịch) một cách thủ công trên hệ thống sổ, hồ sơ giấy như bấy lâu nay sẽ là lạc hậu, không phù hợp tiến trình phát triển và yêu cầu đáp ứng của xã hội.
Luật hộ tịch được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 8, thông qua ngày 20/11/2014 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016) tại Điều 59 đã xác định: Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Tại điểm b khoản 2 Điều 65 của Luật giao trách nhiệm cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch, trong đó quy định: Ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; xây dựng và quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đồng thời giao nhiệm vụ, quyền hạn cho Bộ Tư pháp (khoản 3 Điều 66): Xây dựng và quản lý thống nhất Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; hướng dẫn, chỉ đạo địa phương trong việc quản lý, sử dụng phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Ở nước ta, cơ bản đến nay vẫn áp dụng mô hình xác lập, thu thập, lưu trữ thông tin dữ liệu hộ tịch theo phương pháp truyền thống: đăng ký và quản lý hộ tịch thông qua hệ thống biểu mẫu, sổ sách, hồ sơ một cách thủ công, phần lớn vẫn là viết tay, việc ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ dừng ở mức in biểu mẫu hộ tịch từ máy tính. Tuy một số địa phương có sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch, nhưng chủ yếu ở mức độ đăng ký riêng lẻ từng loại việc, chưa có sự liên thông, thống nhất giữa các sự kiện hộ tịch của cùng một cá nhân, chưa kết nối giữa các cơ quan đăng ký hộ tịch với nhau và với cơ quan quản lý hộ tịch cấp trên.
Tuy thông tin hộ tịch được lưu giữ trên hệ thống sổ sách bằng giấy[1], nhưng số lượng sổ hộ tịch lưu trữ không đầy đủ[2], không liên tục, có địa phương không lưu được sổ trong thời gian dài. Trên thực tế, việc lưu trữ sổ hộ tịch một cách có bài bản, hệ thống chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1999, khi triển khai thực hiện Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch. Việc lưu trữ hệ thống sổ hộ tịch giấy, tuy có ưu điểm là bảo đảm an ninh thông tin (không bị hác-cơ tấn công), nhưng lại có nhiều hạn chế, như: cồng kềnh, tốn diện tích; bảo quản khó khăn, dễ rủi ro (do thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, mối mọt); dữ liệu hộ tịch cá nhân bị phân tán, thiếu đồng bộ, không xâu chuỗi/kết nối được với nhau; cơ quan đăng ký hộ tịch không quản lý được đầy đủ các dữ liệu hộ tịch cá nhân; khả năng tra cứu, khai thác phục vụ yêu cầu của người dân rất hạn chế; khi cần chứng minh tình trạng hộ tịch thì người dân phải nộp cùng lúc nhiều loại giấy tờ, gây khó khăn, phiền hà v.v...
Trên thế giới và khu vực, nhiều nước đã thực hiện tin học hóa công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Tùy điều kiện thực tiễn và nhu cầu của mỗi nước mà việc tin học hóa được áp dụng ở những mức độ khác nhau. Có nước đã tin học hóa toàn bộ quá trình đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử trên cả nước (như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan…), có nước kết hợp đăng ký thủ công (đăng ký, lưu giữ trên sổ giấy) với tin học hóa từng bước (Nhật Bản, Trung Quốc) hoặc điện tử hóa toàn bộ (Cộng hòa Liên Bang Đức, Hungary…).
Ở Việt Nam, việc hiện đại hóa công tác đăng ký hộ tịch đã được tiến hành ở nhiều địa phương, nhưng theo lộ trình, mức độ khác nhau. Về thiết bị, hiện có 14 tỉnh, thành phố đã trang bị cho 100% công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã máy tính có kết nối internet phục vụ riêng công tác đăng ký, quản lý hộ tịch; 11 tỉnh đã trang bị cho trên 55% số công chức tư pháp - hộ tịch trên địa bàn máy tính có kết nối internet phục vụ riêng cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và tựu trung lại, trung bình cả nước mới có từ 20% đến dưới 55% số xã được trang bị máy tính để phục vụ riêng cho công tác đăng ký hộ tịch của công chức tư pháp - hộ tịch. Về ứng dụng phần mềm đăng ký hộ tịch, có 40/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai ứng dụng phần mềm vào đăng ký hộ tịch; 5 tỉnh, thành phố đang xây dựng và triển khai ứng dụng phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, mức độ thực hiện tin học hóa tại các địa phương cũng rất khác nhau, hầu hết đều chưa đồng bộ, chưa bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và yêu cầu quản lý[3].
Theo đánh giá của các địa phương, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch và xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đã mang lại nhiều thuận lợi, khắc phục được tình trạng đăng ký và quản lý hộ tịch có sai sót, giảm thời gian thao tác, thuận tiện cho việc tra cứu, thống kê hộ tịch, tạo thuận lợi cho người dân, bảo đảm tiết kiệm, giảm chi phí khi thực hiện thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch.
Tuy nhiên, do việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch tại các địa phương thiếu quy hoạch, kế hoạch thống nhất, nên dẫn đến tình trạng: phần mềm do nhiều nguồn cung cấp, thiết kế trên nền tảng công nghệ khác nhau, khó có khả năng kết nối giữa các cơ quan sử dụng, giữa các cấp, đơn vị hành chính (các xã trong cùng huyện, giữa các huyện cùng tỉnh, giữa các tỉnh với nhau). Việc ứng dụng và cài đặt các phần mềm này mới chỉ dừng lại ở mức độ hỗ trợ công chức thực hiện nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và mức độ 2[4]; chưa có sự kết nối thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay về việc phát triển Chính phủ điện tử - cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4[5]. Dẫn đến khả năng phục vụ nhu cầu tra cứu, xác minh thông tin hộ tịch của người dân và yêu cầu quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch là biện pháp số hóa (điện tử hóa) thông tin hộ tịch của cá nhân, trong đó có thông tin khai sinh – là thông tin hộ tịch gốc. Theo Đề án 896, Luật hộ tịch, Luật CCCD, đây là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bên cạnh đó, những thông tin hộ tịch khác về kết hôn, ly hôn, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, khai tử... được cập nhật vào hệ thống dữ liệu, được coi là thông tin “động”, có giá trị làm cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư luôn sống. Vì vậy, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc – cơ sở trung tâm để kết nối, tiếp nhận, liên thông với toàn bộ cơ sở hộ tịch điện tử từ các địa phương trên cả nước – nhằm lưu giữ tập trung, kết nối, chia sẻ và cung cấp thông tin cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, là yêu cầu cốt lõi, là điều kiện không thể thiếu mà bất cứ phần mềm đăng ký hộ tịch nào cũng phải đáp ứng được.
Thực hiện nhiệm vụ được Luật hộ tịch, Chính phủ giao, Bộ Tư pháp đã tích cực triển khai các hoạt động phục vụ xây dựng Đề án CSDLHT điện tử toàn quốc, chuẩn bị lấy ý kiến của các cơ quan, đơn vị có liên quan trước khi hoàn thiện trình Thủ tướng vào tháng 8/2015.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Quan điểm chỉ đạo
a) Bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam; Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020; phù hợp với Luật Hộ tịch và những nội dung có liên quan của Đề án 896.
b) Bảo đảm tối đa lợi ích của người dân khi thực hiện quyền đăng ký hộ tịch, đồng thời nâng cao chất lượng thực thi công vụ và trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch.
c) Thiết lập đồng bộ hệ thống thông tin hộ tịch tại cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch; bảo đảm kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư;
d) Ưu tiên kế thừa nguồn lực, các cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, phần mềm đăng ký hộ tịch sẵn có tại các cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch địa phương, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với yêu cầu phát triển về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong tương lai.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu tổng quát
Ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch trên phạm vi toàn quốc, hình thành cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử tập trung, có sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương, có sự phân quyền, phân cấp hợp lý giữa các cơ quan đăng ký hộ tịch theo đơn vị hành chính, theo cấp quản lý; bảo đảm bí mật thông tin cá nhân, đáp ứng yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính, từng bước hiện đại hóa công tác đăng ký hộ tịch, tiến tới đăng ký trực tuyến; bảo đảm kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu chuyên ngành có liên quan.
2.2. Mục tiêu cụ thể
a) Giai đoạn 2014-2015: giai đoạn này chủ yếu tiến hành hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc và triển khai xây dựng phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử, thí điểm áp dụng trên một số địa bàn.
b) Giai đoạn 2016 -2020: giai đoạn này sẽ tiến hành những hoạt động sau:
- Hoàn thiện văn bản dưới luật quy định cơ chế phối hợp; cơ chế kết nối, chia sẻ thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; phân quyền quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
- Hoàn thành việc xây dựng cơ sở vật chất, phần mềm quản lý hộ tịch thống nhất và nguồn nhân lực tại cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch.
- Đăng ký các sự kiện hộ tịch mới, từng bước cập nhật thông tin từ cơ sở dữ liệu giấy vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (số hoá, nhập dữ liệu hộ tịch từ các sổ giấy hiện đang được lưu trữ tại các địa phương).
- Cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch điện tử giữa các cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch; hiện đại hóa công tác đăng ký và cấp các giấy tờ hộ tịch (đăng ký hộ tịch trực tuyến theo từng cấp độ).
- Kết nối, chia sẻ thông tin từ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác có liên quan.
c) Giai đoạn từ 2020 trở đi: thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử, giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến (cấp độ 3 hoặc cấp độ 4).
3. Giải pháp thực hiện Đề án
3.1. Giải pháp về thể chế
Xây dựng văn bản pháp luật (Nghị định của Chính phủ) quy định về quá trình vận hành, khai thác, quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử phù hợp với quy mô, tính chất và các yêu cầu nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật.
3.2. Giải pháp về hạ tầng kỹ thuật
- Tiếp tục sử dụng, nâng cấp thiết bị sẵn có tại các địa phương, bảo đảm kế thừa, tiết kiệm chi phí đầu tư; chỉ trang bị mới trong trường hợp thực sự cần thiết, bảo đảm trang bị cho mỗi cán bộ, công chức làm công tác đăng ký, quản lý hộ tịch 01 máy tính có kết nối mạng Internet, phục vụ riêng cho công tác hộ tịch.
- Ưu tiên sử dụng giải pháp thuê hạ tầng công nghệ thông tin của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có kinh nghiệm, khả năng về kỹ thuật và nguồn vốn để cung cấp đồng bộ, gồm phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử, đường truyền, máy tính, đào tạo/bồi dưỡng người sử dụng, duy tu, bảo trì dài hạn và bảo đảm an toàn thông tin cho từng bản ghi dữ liệu cũng như sự an toàn cho toàn bộ hệ thống.
3.3. Giải pháp về phần mềm
Phần mềm đăng ký hộ tịch phải đáp ứng mọi yêu cầu đăng ký hộ tịch và cấp giấy tờ hộ tịch cho người dân và cơ quan, tổ chức có yêu cầu theo Luật hộ tịch; có khả năng đăng ký hộ tịch trực tuyến đủ cấp độ theo lộ trình cụ thể; có khả năng kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành khác; đáp ứng yêu cầu quản lý, tra cứu, khai thác sử dụng của 4 cấp từ Trung ương đến cấp xã; bảo đảm an ninh và bảo mật thông tin, bí mật đời tư cá nhân, sự an toàn cho toàn bộ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; kết nối được với các phần mềm đăng ký hộ tịch hiện có tại các địa phương (phần mềm đăng ký hộ tịch tại các địa phương cần được chỉnh sửa để hợp chuẩn, kết nối được với Trung ương mà không bắt buộc phải thay thế mới).
3.4. Giải pháp về nguồn nhân lực
- Sử dụng tối đa năng lực của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch hiện nay, trên cơ sở cân đối bố trí đủ biên chế, căn cứ vào nhu cầu đăng ký hộ tịch, đặc điểm tình hình thực tế của từng địa phương.
- Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch (ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã), kể cả về chuyên môn, nghiệp vụ hộ tịch và kiến thức tin học, kỹ năng sử dụng phần mềm, quản trị hệ thống, bảo mật thông tin, an toàn dữ liệu.
3.5. Giải pháp tổ chức, triển khai
- Tạo lập cơ chế chỉ đạo, điều hành thống nhất từ Trung ương đến địa phương; sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của các bộ, ngành có liên quan để bảo đảm bảo sự thành công của Đề án.
- Khảo sát trực tiếp và yêu cầu địa phương báo cáo để đánh giá tổng thể về thực trạng nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật và tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hộ tịch, từ đó có những giải pháp tích cực, phù hợp.
3.6. Giải pháp tài chính
Ưu tiên giải pháp thuê dịch vụ công nghệ thông tin (theo Quyết định 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), nhất là về hạ tầng công nghệ thông tin để đảm bảo tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả trong quá trình triển khai Đề án; đồng thời kết hợp tìm kiếm nguồn lực khác để triển khai thành công Đề án.
4. Nhiệm vụ và lộ trình thực hiện
4.1. Giai đoạn 2014-2015: Trong giai đoạn này dự kiến sẽ tiến hành những hoạt động như sau:
a) Xây dựng các văn bản QPPL quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch
b) Thí điểm xây dựng phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử tại một số địa bàn.
c) Khảo sát, đánh giá về cơ sở vật chất, hạ tầng để phục vụ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại các địa phương (số lượng, chất lượng máy tính, hạ tầng mạng, phần mềm đang sử dụng); Khảo sát, đánh giá trình độ tin học, trình độ chuyên môn của công chức Tư pháp - hộ tịch (độ tuổi, số năm công tác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học thực tế...). Đối với những địa phương chưa được trang bị máy tính, kết nối internet thì dự kiến kinh phí để mua sắm hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
d) Xây dựng phương án chỉnh sửa phần mềm hộ tịch hiện có, tích hợp dữ liệu tại các cơ quan đăng ký hộ tịch đã có ứng dụng phần mềm quản lý hộ tịch vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch toàn quốc (tại các địa bàn đã sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử, có dữ liệu hộ tịch điện tử).
4.2. Giai đoạn 2016-2020: Trong giai đoạn này dự kiến sẽ tiến hành các hoạt động như sau:
a) Đánh giá kết quả thí điểm tại giai đoạn 2014-2016, rút kinh nghiệm, điều chỉnh phần mềm đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành.
b) Xây dựng Dự án khả thi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt trên cơ sở kết quả thí điểm, kết hợp với kết quả khảo sát, đánh giá về cơ sở vật chất, hạ tầng để phục vụ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở các địa phương.
c) Bố trí đủ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch; chỉnh sửa các hệ thống phần mềm đang sử dụng bảo đảm tính tương thích, kết nối với hệ thống toàn quốc; cài đặt, đào tạo sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử, cập nhật, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử cho các đơn vị chưa được trang bị phần mềm.
d) Bố trí đủ biên chế công chức làm công tác hộ tịch, bảo đảm đáp ứng yêu cầu thực tế của địa phương, có tính toán tới đội ngũ dự bị.
đ) Trang bị, kết nối, vận hành phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đồng bộ trên toàn quốc (theo lộ trình xác định trong Dự án khả thi).
e) Xây dựng văn bản QPPL quy định về việc kết nối, chia sẻ, cung cấp, trao đổi thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; phân cấp, phân quyền khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin trong cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
g) Tập trung số hoá, cập nhật toàn bộ dữ liệu hộ tịch giấy hiện đang được lưu trữ tại các địa phương để phục vụ tốt công tác tra cứu, thống kê số liệu hộ tịch. Nhiệm vụ này có thể kéo dài trong giai đoạn tiếp theo (sau năm 2020), tuỳ theo số lượng dữ liệu hộ tịch của từng địa phương.
h) Thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch, giữa cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trên cơ sở Nghị định quy định chi tiết Luật Hộ tịch.
5. Cơ chế tài chính của Đề án
Ngân sách Trung ương bảo đảm cho việc xây dựng thể chế. Đồng thời, khi lựa chọn đối tác cung cấp giải pháp xây dựng, duy trì Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử ở Trung ương cần đặc biệt chú ý cơ chế thuê hạ tầng công nghệ thông tin theo quy định tại Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg ngày 30/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Về phía địa phương sẽ bảo đảm kinh phí từ ngân sách địa phương (cùng các nguồn kinh phí huy động hợp pháp khác) để thực hiện việc xây dựng, duy trì Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử tại địa phương.
6. Về tổ chức thực hiện đề án
Sau khi chính thức được phê duyệt, Bộ Tư pháp sẽ chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành có liên quan xây dựng, hoàn thiện về mặt thể chế pháp lý cho lĩnh vực này; có kế hoạch tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, đề xuất đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc; tổ chức khảo sát, thiết kế, xây dựng Dự án khả thi cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; lựa chọn đối tác, phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch và tổ chức triển khai thực hiện Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc.
Các bộ, ngành có liên quan (Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tào chính, Bộ TTTT, Bộ Nội vụ, Bộ Công an...) có trách nhiệm phối hợp thực hiện đề án và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể được đề án giao trên cơ sở phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
Về phía Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: sau khi đề án được phê duyệt, UBND các tỉnh, thành chỉ đạo xây dựng Kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện Đề án tại địa phương; rà soát, đánh giá, có phương án bố trí đủ biên chế làm công tác hộ tịch cho các Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, cấp xã; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bảo đảm công chức làm công tác hộ tịch có đủ tiêu chuẩn, năng lực chuyên môn/tin học để thực hiện Luật hộ tịch và các nhiệm vụ của Đề án; bảo đảm kinh phí và các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý và duy trì cơ sở dữ liệu hộ tịch tại địa phương; có kế hoạch và bố trí kinh phí để thực hiện nhập dữ liệu hộ tịch từ hệ thống sổ giấy hiện đang lưu trữ, bảo đảm khai thác, sử dụng lâu dài, hiệu quả./.
[1] Sổ đăng ký khai sinh, Sổ đăng ký kết hôn, Sổ đăng ký khai tử, Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi, Sổ đăng ký việc giám hộ v.v…Ngoài ra còn có hồ sơ, giấy tờ lưu cho từng loại việc đăng ký hộ tịch tương ứng như Giấy chứng sinh, Tờ khai đăng ký khai sinh (đối với việc đăng ký khai sinh); Tờ khai đăng ký kết hôn, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (đối với việc đăng ký kết hôn); Bản thỏa thuận cho, nhận con nuôi, Biên bản cử giám hộ (đối với việc nuôi con nuôi, đăng ký giám hộ) v.v… mà đương sự kê khai và nộp cho cơ quan đăng ký hộ tịch
[2] Tính đến tháng 6 năm 2012, ở cả 03 cấp trong cả nước (tỉnh, huyện, xã) đang lưu trữ một số lượng lớn sổ sách hộ tịch lên tới 771.909 quyển, chủ yếu là Sổ đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn và đăng ký khai tử, với trên 56.866.000 dữ liệu đăng ký trong sổ lưu; ngoài các sổ đăng ký hộ tịch theo quy định của Nhà nước từ năm 1945 đến nay, một số Sở Tư pháp còn lưu trữ được sổ hộ tịch từ chế độ cũ.
[3] Có 09 địa phương trang bị phần mềm đăng ký hộ tịch, áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh, có sự kết nối liên thông 3 cấp, gồm: Bạc Liêu, Bắc Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Phú Yên, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Nam, thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên vẫn chưa toàn diện và độ trễ vẫn khá cao.
- Các tỉnh, thành phố: Hà Nội, An Giang, Lạng Sơn, Thừa Thiên Huế, Lai Châu, Long An, Hà Giang, Sóc Trăng, Tây Ninh, Lâm Đồng đã có phần mềm đăng ký hộ tịch và áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh nhưng chưa có sự kết nối giữa các cấp.
[4] Cung cấp các thông tin về quy trình, thủ tục; hồ sơ; thời hạn; phí và lệ phí thực hiện dịch vụ; cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu; gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
[5] Cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ; Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ hoặc cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.