Đặt vấn đề
Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước nói chung là nhân tố có tính quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Muốn có đội ngũ cán bộ, công chức tốt, trước tiên phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng. Khi nói về vai trò của công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”[1].
Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định cần “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng xác định phương hướng cải cách tư pháp tới năm 2020 là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa X (Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007) cũng chỉ rõ: “Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tụy phục vụ nhân dân”.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, vai trò vô cùng to lớn của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, trong lĩnh vực tư pháp – hộ tịch nói riêng, nên tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã nhất trí thông qua Luật hộ tịch, trong đó yêu cầu Chính phủ có kế hoạch rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch, bảo đảm đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Luật trước ngày 01/01/2020. Do đó, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch (cả trong và ngoài nước) trong giai đoạn hiện nay, thì công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, Ngành trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.
Với tinh thần đó, trong khuôn khổ chuyên đề này, chúng tôi chủ yếu trình bày về thực trạng và định hướng kiện toàn đội ngũ làm công tác hộ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu của Luật Hộ tịch, từ nay đến năm 2020.
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ CÔNG TÁC RÀ SOÁT, KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC HỘ TỊCH
1. Luật hộ tịch
Luật hộ tịch được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8, ngày 20/11/2014 (có hiệu lực từ 01/01/2016). Đây là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản ở tầm Luật để điều chỉnh riêng về lĩnh vực hộ tịch, sau hơn nửa thế kỷ điều chỉnh lĩnh vực này bằng các Nghị định của Chính phủ[2]. Vì thế, có thể coi đây là cuộc “cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói chung.
2. Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ
Ngày 15/01/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 59/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật hộ tịch. Trong đó, đã xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật Hộ tịch, bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả. Đồng thời, Kế hoạch cũng xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong việc tiến hành các hoạt động triển khai thi hành Luật Hộ tịch trên phạm vi cả nước. Về việc thực hiện nhiệm vụ rà soát, kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, trong Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ đã giao:
- Uỷ ban nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cần khẩn trương tiến hành và hoàn thành việc rà soát đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại địa phương trước ngày 31/7/2015, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kết quả rà soát và đề xuất Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bố trí đủ công chức Phòng Tư pháp làm công tác hộ tịch, bảo đảm đủ công chức làm công tác hộ tịch khi chuyển giao thẩm quyền theo quy định của Luật.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc rà soát đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại địa phương, đề xuất lộ trình đào tạo, bồi dưỡng và báo cáo kết quả về Bộ Tư pháp trước ngày 31/8/2015.
- Bộ Ngoại giao hoàn thành việc rà soát đội ngũ viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự làm công tác hộ tịch tại các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, báo cáo kết quả về Bộ Tư pháp trước ngày 31/8/2015.
- Bộ Tư pháp tổng hợp kết quả rà soát của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Bộ Ngoại giao, đề xuất kế hoạch đào tạo đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10/2015.
3. Quyết định số 333/QĐ-BTP ngày 14/02/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật hộ tịch của Bộ Tư pháp
Đây là văn bản của Bộ Tư pháp nhằm triển khai Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, về nhiệm vụ rà soát, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hộ tịch, kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đáp ứng các tiêu chuẩn bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong Luật hộ tịch, Kế hoạch đã xác định rõ:
a) Về rà soát đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch
- Ủy ban nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoàn thành việc rà soát đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại địa phương trước ngày 31 tháng 7 năm 2015, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kết quả rà soát và đề xuất Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí đủ công chức Phòng Tư pháp làm công tác hộ tịch, bảo đảm đủ công chức làm công tác hộ tịch khi chuyển giao thẩm quyền theo quy định của Luật.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc rà soát đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại địa phương, đề xuất lộ trình đào tạo, bồi dưỡng và báo cáo kết quả về Bộ (Vụ Tổ chức cán bộ) trước ngày 31 tháng 8 năm 2015.
- Bộ Ngoại giao hoàn thành việc rà soát đội ngũ viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự làm công tác hộ tịch tại các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, báo cáo kết quả về Bộ (Vụ Tổ chức cán bộ) trước ngày 31 tháng 8 năm 2015.
- Bộ Tư pháp tổng hợp kết quả rà soát, đề xuất kế hoạch đào tạo đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch xây dựng Báo cáo của Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30 tháng 10 năm 2015.
Sau đó, tiếp tục rà soát cập nhật trong những năm tiếp theo.
b) Về tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch: Kế hoạch xác định tổ chức 2 Lớp tập huấn những nội dung mới của Luật hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành tại khu vực phía Bắc và phía Nam cho công chức thuộc Sở Tư pháp các các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[3] và Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại địa phương[4].
c) Về đào tạo, kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch bảo đảm đủ tiêu chuẩn được quy định trong Luật hộ tịch: Kế hoạch giao Trường Đại học Luật Hà Nội, 05 Trường Trung cấp Luật thuộc Bộ Tư pháp nghiên cứu đưa nội dung đăng ký và quản lý hộ tịch thành nội dung học bắt buộc, thống nhất tại trường Đại học Luật và 05 Trường Trung cấp Luật; có kế hoạch tuyển sinh và thực hiện công tác đào tạo (Cử nhân, Trung cấp Luật), bảo đảm trước ngày 31/12/2019 đạt 100% công chức làm công tác hộ tịch đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật hộ tịch.
II. KHÁI QUÁT VỀ THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC HỘ TỊCH[5]
1. Về đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã
Tổng hợp kết quả báo cáo, phản ánh của các địa phương trong cả nước cho thấy, trong năm 2014, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về chất lượng và số lượng. Cụ thể như sau:
- Về số lượng, thống kê đến hết tháng 10/2014, cả nước đã có 17.252 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã (tăng 473 cán bộ so với năm 2013), trong đó 48,9% đơn vị cấp xã đã có từ 2 công chức Tư pháp - Hộ tịch trở lên hoặc đã bố trí cán bộ hợp đồng để hỗ trợ thực hiện công tác tư pháp tại cấp xã (tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2013). Sơ bộ cho thấy, so với yêu cầu, cả nước còn trên 50% số xã, phường, thị trấn chưa bố trí được 2 công chức Tư pháp - Hộ tịch.
- Về chất lượng, tỷ lệ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã có trình độ trung cấp (nói chung) chiếm 96,5% (tăng 1,1% so với năm 2013), trong đó có 78,3% tổng số cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã đã có trình độ trung cấp Luật trở lên (tăng 2,8% so với năm 2013). Như vậy, sơ bộ, so với yêu cầu của Luật hộ tịch, thì còn trên 22% công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã (gần 4.000 người) cần được đào tạo trình độ trung cấp Luật. Đây là thách thức không nhỏ đối với toàn ngành trong việc bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng đủ tiêu chuẩn để triển khai thi hành tốt Luật hộ tịch. Đó còn chưa kể đến tình hình chắc chắn sẽ có sự thay đổi sau Đại hội Đảng các cấp, khi nhiều công chức Tư pháp – Hộ tịch được luân chuyển, chuyển đổi hoặc bổ nhiệm vị trí công tác khác.
2. Về đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch cấp huyện
- Về số lượng, hiện có 3.150 công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp của 704 đơn vị cấp huyện trên cả nước (trung bình 4,47 người/1 Phòng TP). Tuy nhiên, xuất phát từ sự phân bố dân cư, nhu cầu công việc và tình hình cụ thể tại mỗi địa phương nên sự phân bổ biên chế tại các Phòng Tư pháp thuộc các tỉnh, Thành phố rất không đồng đều: nhiều Phòng Tư pháp tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, An Giang, Sóc Trăng...) chỉ có 2 biên chế, nhưng tại TP HCM lại có từ 8-14 biên chế/Phòng Tư pháp (Phòng TP quận 1 TP HCM có tới 14 biên chế).
Về chất lượng, hiện có 2.455/3.150 công chức làm công tác hộ tịch cấp huyện có trình độ đại học luật trở lên (chiếm tỷ lệ gần 78%). Như vậy còn tới 700 người (tức 22%) trên tổng cán bộ công chức làm công tác hộ tịch cấp huyện hiện nay chưa đạt tiêu chuẩn, trình độ (đại học luật) theo quy định của Luật hộ tịch. Nếu sau Đại hội các cấp tại các địa phương, số cán bộ này tiếp tục được giữ lại làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp, thì các địa phương cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể để đưa đi đào tạo đại học luật, bảo đảm đủ tiêu chuẩn trước 01/01/2020.
3. Về đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, lãnh sự với trên 100 nước, trong đó đã có Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự tại gần 100 nước. Tuy nhiên, chỉ tại những địa bàn có số lượng đông công dân Việt Nam mới phát sinh công việc hộ tịch của người dân và cũng thường tại những địa bàn ấy mới bố trí cán bộ chuyên trách công tác hộ tịch[6]. Còn phần lớn các địa bàn (ít bà con) thường bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác hộ tịch hoặc mỗi cán bộ thực hiện một công việc hộ tịch nhất định (ví dụ, người phụ trách khai sinh, người phụ trách kết hôn, người phụ trách nuôi con nuôi v.v...). Sơ bộ, hiện có khoảng 100 cán bộ làm công tác hộ tịch ngoài nước tại các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự. Tất cả số đó đều có trình độ đại học (các ngành khác nhau) trở lên và đều được Bộ Ngoại giao tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch và cấp chứng chỉ trước khi ra nước ngoài công tác. Theo phản ánh của Cục Lãnh sự, nhìn chung, yêu cầu bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ hộ tịch đối với đội ngũ này thời gian qua, cơ bản đáp ứng yêu cầu, không có gì trở ngại.
III. PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC HỘ TỊCH
1. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch
a) Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã
Căn cứ Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 359/QĐ-BTP ngày 06/3/2012 về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp giai đoạn 2011-2015, trong đó đối tượng công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã thuộc lĩnh vực chuyên môn Bộ Tư pháp có trách nhiệm bồi dưỡng. Theo Đề án nêu trên, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đặt ra đến năm 2015 như sau:
- 90% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định;
- 95% công chức cấp xã vùng đô thị, vùng đồng bằng; 90% công chức cấp xã vùng núi có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên;
- Hỗ trợ chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm đối với công chức cấp xã theo quy định.
Kết quả năm 2014, Bộ Tư pháp tổ chức mở 05 lớp bồi dưỡng dành cho 334 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo” tại 05 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Giang, Cao Bằng, Phú Thọ, Yên Bái, Kon Tum); phối hợp với Bộ Nội vụ biên soạn Tài liệu bồi dưỡng công chức Tư pháp - Hộ tịch phường, thị trấn…
Tuy nhiên, căn cứ chỉ tiêu tại Đề án nêu trên, với kết quả thống kê về số lượng, chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã, thì đến nay, rõ ràng là chưa đạt so với yêu cầu.
Để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch, các địa phương cần lưu ý một số yêu cầu chung như sau:
Thứ nhất, cần tách bạch rõ công tác đào tạo chuyên môn và bồi dưỡng nghiệp vụ để có kế hoạch, lộ trình đào tạo, bồi dưỡng cụ thể cho giai đoạn 5 năm (2016-2020) và các năm tiếp theo. Theo đó, mỗi địa phương cần có chiến lược, quy hoạch để xác định sử dụng công chức Tư pháp - Hộ tịch lâu dài, bảo đảm tính chuyên nghiệp, từ đó xác định rõ nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng. Cụ thể như sau:
Một là, về đào tạo trung cấp luật: Giai đoạn 2016-2020 được coi là giai đoạn chuyển tiếp để công chức TP-HT hoàn thiện yêu cầu đào tạo, đáp ứng tiêu chuẩn. Nên chia giai đoạn này thành 2 thời kỳ 2016-2018 và 2018-2020 để các địa phương cân đối, bố trí hợp lý số công chức TP-HT cấp xã làm việc và số cử đi đào tạo. Mỗi thời kỳ nên đưa ½ số công chức đi đào tạo để không bị động, ảnh hưởng đến công việc, bảo đảm đến 2020 đưa hết 22% số công chức TP-HT đi đào tạo trung cấp luật (mỗi thời kỳ đào tạo 11%, tương đương 700 người/cả nước).
Hai là, về bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch: đây là công việc cần được khiển khai thường xuyên hàng năm, bảo đảm để công chức TP-HT luôn được cập nhật, hâm nóng kiến thức và trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ. Cơ quan tư pháp địa phương cần chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân phê duyệt kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch hàng năm đối với công chức TP-HT cấp xã.
b) Đối với công chức làm công tác hộ tịch tại UBND cấp huyện
Tương tự như công tác đào tạo công chức TP-HT cấp xã đã nêu trên, đối với việc đào tạo công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp cấp huyện, các địa phương cũng cần xác định giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn chuyển tiếp để công chức làm công tác hộ tịch cấp huyện, nếu thiếu tiêu chuẩn, thì phải được đào tạo để bảo đảm đáp ứng yêu cầu. Đề nghị các địa phương cân đối, bố trí hợp lý số công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp, bố trí kinh phí và lập kế hoạch cụ thể để đào tạo đối với toàn bộ 22% (700 người/toàn quốc) số công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp hiện chưa có trình độ đại học luật. Công việc này phải được tiến hành sớm để bắt đầu từ 2016 là đưa cán bộ đi đào tạo ngay, vì thời gian đào tạo đại học sẽ dài hơn trung cấp. Đối với những người đã có bằng đại học chuyên ngành khác, nếu vẫn bố trí làm công tác hộ tịch, thì cần có kế hoạch đào tạo theo hình thức chuyển đổi bằng, thời gian sẽ ít hơn, nhưng cũng nên bắt đầu từ 2017.
c) Đối với cán bộ làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài
Đề nghị Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc lập kế hoạch, trong đó xác định rõ đối tượng, nội dung chương trình, thời gian bồi dưỡng cho số cán bộ này trước khi nhận nhiệm vụ để bảo đảm thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch của công dân Việt Nam ở nước ngoài theo đúng quy định của Luật hộ tịch.
2. Yêu cầu kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch
Thứ nhất, theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật hộ tịch), từ ngày 01/01/2016 tất cả các địa phương trong cả nước chỉ tuyển dụng mới công chức làm công tác hộ tịch đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Luật hộ tịch. Nghĩa là, đối với công chức TP-HT cấp xã, tối thiểu phải có trình độ trung cấp luật; công chức Phòng Tư pháp cấp huyện phải có trình độ cử nhân luật. Các địa phương cần hết sức lưu ý điều này để thực hiện đúng.
Thứ hai, về số lượng biên chế công chức làm công tác hộ tịch tại UBND cấp xã và Phòng Tư pháp, cần bảo đảm bố trí đủ để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, nhất là nhiệm vụ đăng ký, quản lý hộ tịch theo Luật hộ tịch.
Thứ ba, riêng đối với các Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện trên địa bàn cả nước, đề nghị cần khẩn trương chuẩn bị đầy đủ nhân lực và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật từ ngày 01/01/2016. Trong đó, đặc biệt lưu ý vấn đề chuyển giao thẩm quyền từ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/Sở Tư pháp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện/Phòng Tư pháp đối với các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Căn cứ tình hình cụ thể tại địa phương, nhất là với những địa bàn phát sinh nhiều vụ việc kết hôn với người nước ngoài, UBND có thể điều động, bố trí tạm thời/có thời hạn công chức của Sở Tư pháp (bộ phận lâu nay giải quyết hồ sơ kết hôn có yếu tố nước ngoài) để tăng cường, hỗ trợ cho cấp huyện trong thời gian nhất định.
Thứ tư, đối với vấn đề bố trí công chức làm công tác hộ tịch chuyên trách, theo quy định của Luật hộ tịch, căn cứ tình hình cụ thể tại địa phương (về diện tích, dân số, số lượng ngày càng gia tăng các vụ việc hộ tịch...), Phòng Tư pháp cần chủ động đề xuất, báo cáo UBND cấp huyện để UBND cấp tỉnh quyết định về việc bố trí công chức làm công tác hộ tịch chuyên trách. Trước mắt, cần ưu tiên bố trí cho những nơi đã có từ 2 công chức TP-HT trở lên, để tạo điều kiện cho công chức TP-HT dành thời gian chuyên tâm vào công việc đăng ký hộ tịch, bảo đảm quyền lợi cho người dân và giúp UBND thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý lĩnh vực hộ tịch tại địa bàn./.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, Tr.269.
[2] Nghị định số 764/TTg ngày 8/5/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bản điều lệ đăng ký hộ tịch.
[3] Lãnh đạo Bộ đã phê duyệt kế hoạch tổ chức tập huấn vào cuối tháng 10, đầu tháng 11/2015.
[5] Hiện nay các địa phương và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đang tiến hành rà soát để chuẩn bị báo cáo về Bộ Tư pháp (thời hạn trước 31/8/2015). Do đó, bài viết này chủ yếu đề cập đến thực trạng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch theo tổng hợp số liệu báo cáo đến hết tháng 10/2014.
[6] Ví dụ, các địa bàn Hoa Kỳ, Đức, Pháp… đều có cán bộ ngoại giao chuyên trách công tác hộ tịch.