Chứng thực văn bản ủy quyền - một vướng mắc cần sớm được tháo gỡ

(26/02/2014)

Từ quy định tại Điều 121 của Bộ Luật Dân sự: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” có thể hiểu rằng, ủy quyền chính là một giao dịch dân sự, qua đó người này (người ủy quyền) chỉ định người kia (người được ủy quyền) đại diện cho mình thực hiện một hoặc nhiều công việc.

 

Về hình thức của ủy quyền, theo khoản 2, Điều 142 của Bộ Luật Dân sự thì“Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”. Như vậy, theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì có thể có nhiều hình thức ủy quyền khác nhau. Chính vì vậy, trong đời sống thường ngày, ngoài việc ủy quyền bằng văn bản, nhiều quan hệ ủy quyền được xác lập chỉ bằng lời nói hoặc những hành vi cụ thể. Khi việc ủy quyền được lập thành văn bản thì cũng có nhiều hình thức văn bản khác nhau (hợp đồng ủy quyền, Giấy ủy quyền, Biên bản ủy quyền…). Chính vì sự “trăm hoa đua nở” các hình thức văn bản ủy quyền đã gây “khó” cho người thực hiện chứng thực và người dân cũng sẽ gặp phải nhiều rắc rối khi yêu cầu chứng thực[1] vì không có sự thống nhất về cách hiểu và cách thức thực hiện, cụ thể là:

 Thứ nhất, đối với việc chứng thực hợp đồng ủy quyền

Với quan điểm ủy quyền chính là một giao dịch (phù hợp với quy định tại Điều 121 của Bộ luật Dân sự) thì việc chứng thực đối với hợp đồng ủy quyền sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì việc chứng thực hợp đồng giao dịch liên quan đến bất động sản theo thẩm quyền địa hạt và hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng (bao gồm cả hợp đồng ủy quyền liên quan đến những giao dịch này) thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện (không thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã).

Thứ hai, đối với việc chứng thực Giấy ủy quyền

Trên thực tế, văn bản ủy quyền lập theo hình thức Giấy ủy quyền chiếm tỷ lệ cao hơn so với hợp đồng ủy quyền. Do pháp luật hiện hành về chứng thực chưa có quy định về thẩm quyền, thủ tục chứng thực Giấy ủy quyền nên một số Ủy ban nhân dân cấp xã vận dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thực hiện chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền. Như vây, nếu hiểu Giấy ủy quyền là một loại giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt, thì Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền là đúng thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, nhưng nếu hiểu ủy quyền là một giao dịch thì phải lập thành hợp đồng và thẩm quyền chứng thực phải là Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Mặt khác, nếu căn cứ theo quy định tại  Điều 48 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì chỉ đối với những “việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản thì phải lập thành hợp đồng (khoản 1) còn các việc ủy quyền khác thì không phải lập thành hợp đồng ủy quyền mà có thể lập thành Giấy ủy quyền và chỉ cần người ủy quyền ký vào Giấy ủy quyền (khoản 2) và trong trường hợp này, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực chữ ký của người ủy quyền cũng là phù hợp.

 Vấn đề đặt ra ở đây là sự khác nhau về giá trị pháp lý giữa chứng thực Hợp đồng ủy quyền với việc chứng thực chữ ký trên Giấy ủy quyền. Trong khi khoản 2, 3 Điều 2 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định: “Văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ…” thì khoản 6 Điều 3 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chỉ quy định “…chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực” (Giấy ủy quyền đã được chứng thực chỉ là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký Giấy ủy quyền). Như vậy, pháp luật đã quy định khá rõ về giá trị pháp lý của từng loại văn bản được chứng thực, tuy nhiên trên thực tế đa số người dân không nắm về sự khác nhau này nên trong nhiều trường hợp để làm theo thủ tục đơn giản hơn, lệ phí thấp hơn, đi lại thuận tiện hơn, họ đã lập Giấy ủy quyền để được Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký thay cho việc lập Hợp đồng ủy quyền với thủ tục phức tạp và phải đến Ủy ban nhân dân cấp huyện chứng thực.  

Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, chúng tôi cho rằng pháp luật về chứng thực cần sớm được sửa đổi, bổ sung, trong đó để tránh rủi ro cho các bên tham gia giao dịch thì cần quy định rõ những việc ủy quyền nào thì bắt buộc phải lập thành Hợp đồng ủy quyền và phải thực hiện chứng thực theo thẩm quyền, thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch; bên cạnh đó, để tạo thuận lợi cho cá nhân trong những trường hợp ủy quyền đơn giản thì cũng cần quy định rõ những việc ủy quyền nào chỉ cần lập Giấy ủy quyền và thẩm quyền, thủ tục chứng thực sẽ được thực hiện theo quy định về chứng thực chữ ký./.



[1] Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến việc chứng thực hợp đồng tại những địa bàn chưa chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch của UBND cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng.

Lương Thị Lanh


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang