Ngày 27 tháng 2 năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trong đó có quy định về chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ, tài liệu. Có thể nói, đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về hoạt động chứng nhận/chứng thực chữ ký người dịch trong thời kỳ mới, tạo tiền đề cho sự phát triển của công tác công chứng/chứng thực bản dịch trong những năm tiếp theo. Tiếp đó, Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, cũng đều có các quy định về công chứng bản dịch. Như vậy có thể nói, công tác công chứng, chứng thực chữ ký người dịch trong bản dịch thời gian qua đã phần nào đáp ứng nhu cầu của người dân.
Từ khi Quốc hội thông qua Luật Công chứng (Luật số 82/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006), tách hoạt động công chứng với hoạt động chứng thực, thì việc chứng thực chữ ký người dịch được thực hiện theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và được giao cho các Phòng Tư pháp thực hiện.
Tuy nhiên, sau hơn năm năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc thực hiện chứng thực chữ ký người dịch theo quy định tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP cũng đã gặp phải một số vướng mắc, bất cập, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP quy định về tiêu chuẩn người dịch còn sơ sài, dẫn đến không đảm bảo chất lượng bản dịch, vừa không hợp lý dẫn đến khó thực hiện. Theo hướng dẫn của Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì tiêu chuẩn của người dịch là: “có bằng cử nhận ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngoài cần dịch hoặc có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên tại nước ngoài đối với thứ tiếng nước ngoài cần dịch.” Như vậy, việc xác định người dịch chỉ đơn thuần căn cứ vào bằng cấp như quy định hiện hành vừa không bảo đảm chất lượng người dịch (vì nhiều người tuy có bằng cấp theo quy định nhưng trình độ dịch thuật không đảm bảo) vì vậy trên thực tế, tình trạng dịch sai, dịch sót, nhầm lẫn, không thống nhất, không đầy đủ, không chính xác… vẫn còn xảy ra nhiều, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Mặt khác, tiêu chuẩn người dịch theo quy định hiện hành không có sự linh hoạt, gây cản trở đối với nhiều trường hợp phát sinh trên thực tế. Cụ thể, hiện nay đối với một số tiếng nước ngoài không phổ biến (như tiếng Lào, Khơ – me…) tại những địa phương thuộc khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa… việc tìm được người dịch có bằng cấp đáp ứng tiêu chuẩn quy định của pháp luật là hết sức khó khăn. Trong khi đó, tại những địa phương này có rất nhiều người tuy thông thạo ngôn ngữ đó nhưng lại không có bằng cấp theo quy định nên không được công nhận là người dịch. Do đó, yêu cầu chứng thực chữ ký của họ trên bản dịch, theo pháp luật hiện hành, là không thực hiện được. Vì vậy, để tháo gỡ vướng mắc này, thiết nghĩ cần có cơ chế kiểm tra, công nhận trình độ đối với những người dịch thuộc trường hợp đặc biệt này để tạo thuận lợi cho người dân.
Thứ hai, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không quy định “cứng” các Phòng Tư pháp phải có đội ngũ cộng tác viên dịch thuật. Vì vậy, trên thực tế, bên cạnh một số Phòng Tư pháp có tổ chức đội ngũ cộng tác viên dịch thuật, nhiều Phòng Tư pháp đã không tổ chức đội ngũ cộng tác viên dịch thuật. Điều này đã gây khó khăn cho người dân trong việc liên hệ tìm người dịch (đặc biệt tại những địa phương không phải là những tỉnh, thành phố lớn). Đặc biệt, đối với một số ngôn ngữ hiếm, người dân phải rất vất vả trong việc liên hệ tìm người dịch. Theo phản ánh của một số địa phương, nhiều trường hợp khi có nhu cầu, người dân phải đáp tàu xe ra tận Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… mới tìm được người dịch. Như vậy, tình trạng này đã gây phiền hà, tốn kém cho người dân.
Thứ ba, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chủ yếu chỉ quy định về trình tự, thủ tục chứng thực chữ ký người dịch; không quy định rõ cơ chế quản lý người dịch cũng như cơ chế xác định trách nhiệm của người dịch trong trường hợp dịch sai, dịch sót, dịch không chính xác, đầy đủ…, vì vậy chưa tạo cơ sở pháp lý nhằm xây dựng, phát triển và quản lý đội ngũ người dịch theo hướng chuyên nghiệp. Đây là bất cập lớn trong điều kiện mở rộng hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam hiện nay. Trong khi ở nhiều nước, dịch thuật được coi là một nghề, người dịch phải trải qua kỳ thi kiểm tra trình độ, được cấp phép hành nghề dịch thuật và khi hành nghề thì phải cam đoan/tuyên thệ nghiêm túc, với sự quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chưa có quy định để kiểm soát chất lượng bản dịch. Việc quy định tiêu chuẩn người dịch còn dựa vào bằng cấp tuy tạo thuận lợi cho người dân tại những tỉnh, thành phố lớn trong việc liên hệ tìm người dịch, song chất lượng của bản dịch, lợi ích của người yêu cầu dịch thuật không được bảo đảm. Vì vậy, để tạo sự cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng bản dịch, đồng thời mở rộng cơ hội lựa chọn người dịch của người dân, cần quy định người dịch được yêu cầu chứng thực chữ ký trong bản dịch tại bất kỳ cơ quan có thẩm quyền chứng thực chữ ký người dịch nào, không phân biệt về địa hạt hành chính.
Như vậy, để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, thì việc quy định cụ thể về tổ chức và quản lý người dịch và hoạt động dịch thuật trong lĩnh vực chứng thực là hết sức cần thiết. Quy định này là cơ sở pháp lý và tiền đề quan trọng để hình thành đội ngũ người dịch có năng lực, trình độ, có đạo đức nghề nghiệp; từng bước phát triển dịch vụ dịnh thuật chuyên nghiệp, có chất lượng trong lĩnh vực chứng thực, tạo sự yên tâm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng bản dịch, đồng thời góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Trần Hà