Tuy nhiên, trong thời gian qua, một số cơ quan thực hiện chứng thực khi thực hiện thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn hiểu và thực hiện chưa thống nhất, chưa đúng quy định của các văn bản nêu trên, gây khó khăn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về Việt Nam mua và sở hữu nhà ở, biểu hiện cụ thể ở một số nội dung như sau:
Thứ nhất, khi chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, một số cơ quan thực hiện chứng thực còn yêu cầu nộp bản sao Sổ hộ khẩu, vừa không đúng quy định pháp luật, vừa gây khó khăn cho người VN định cư ở nước ngoài. Vì Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất không quy định hồ sơ yêu cầu chứng thực hợp đồng, văn bản về bất động sản phải có Sổ hộ khẩu (trừ trường hợp theo quy định tại điểm a tiết 1.2 khoản 1 Mục II của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT như: nhận chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp hoặc nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, trong khu vực rừng phòng hộ).
Thứ hai, một số cơ quan thực hiện chứng thực còn đòi hỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có Hộ chiếu do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc Chứng minh nhân dân. Trong khi đó, theo quy định của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT thì khi yêu cầu chứng thực hợp đồng, văn bản về bất động sản, người yêu cầu chứng thực có thể nộp bản sao Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu (không phân biệt Hộ chiếu do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hay của nước ngoài cấp). Như vậy, căn cứ quy định này, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được xuất trình Hộ chiếu thay Chứng minh nhân dân và Hộ chiếu không nhất thiết phải do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài xuất trình Hộ chiếu do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp thì người thực hiện chứng thực yêu cầu nộp kèm theo giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam, giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo đúng quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP).
Thứ ba, một số cơ quan thực hiện chứng thực đã yêu cầu người Việt nam định cư ở nước ngoài phải thực tế cư trú tại Việt nam từ đủ 3 tháng trở lên mới đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; hoặc một số cơ quan thực hiện chứng thực khi tiếp nhận Hộ chiếu nước ngoài của người Việt Nam định cư ở nước ngoài có giấy tờ xác nhận cư trú hoặc có dấu của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đóng vào Hộ chiếu cho phép cư trú tại Việt Nam với thời hạn 90 ngày nhưng lại từ chối với lý do 90 ngày không phải là 03 tháng! Cách hiểu không đúng quy định về điều kiện cư trú theo quy định tại Điều 67 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP đã gây khó khăn cho người Việt nam định cư ở nước ngoài trong việc sở hữu nhà ở tại Việt nam. Trong khi đó, điểm b khoản 2 Điều 67 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP đã quy định rõ đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang Hộ chiếu nước ngoài phải có thẻ tạm trú hoặc có dấu chứng nhận tạm trú của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh của Việt Nam đóng vào Hộ chiếu với thời hạn tạm trú tại Việt Nam từ 03 tháng trở lên. Như vậy, pháp luật không quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có thời gian cư trú thực tế tại Việt Nam từ 03 tháng trở lên. Mặt khác, theo quy định tại Điều 151 của Bộ luật dân sự thì “Một tháng là 30 ngày”, như vậy thời hạn 90 ngày cũng được xác định là 3 tháng. Do đó, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang Hộ chiếu nước ngoài có giấy tờ xác nhận cư trú hoặc có dấu của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đóng vào Hộ chiếu cho phép cư trú tại Việt Nam từ 03 tháng (hoặc 90 ngày) trở lên là đủ điều kiện về cư trú để được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Thứ tư, do hiểu chưa đúng quy định của pháp luật nên một số cơ quan thực hiện chứng thực đã hướng dẫn người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở trong dự án phát triển nhà ở, không được sở hữu nhà ở tại các khu dân cư hiện hữu. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 66 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi nhà ở (cả trong dự án phát triển nhà ở và ngoài dự án phát triển nhà ở), ngoài ra còn được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở thuộc diện được phép chia lô, bán nền để tự xây dựng nhà ở. Do đó, căn cứ quy định này, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở trong các dự án phát triển nhà ở và được sở hữu nhà ở ngoài các dự án phát triển nhà ở (tức nhà ở tại các khu dân cư hiện hữu), ngoài ra còn được sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở thuộc diện được phép chia lô, bán nền để tự xây dựng nhà ở. Vì vậy, việc một số cơ quan thực hiện chứng thực khi chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài hướng dẫn người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở trong dự án phát triển nhà ở, không được sở hữu nhà ở tại các khu dân cư hiện hữu là chưa đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề trên đây cũng là những nội dung mà Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đã báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp để yêu cầu các cơ quan thực hiện chứng thực hiểu và áp dụng đúng quy định của pháp luật, tạo thuận lợi cho kiều bào trong việc sở hữu nhà ở tại Việt Nam./.
Nguyễn Thu Hương