Tuy
nhiên, cho đến nay Nghị định số 79/2007/NĐ-CP cũng bộ lộ những bất cập, điều này được
thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:
- Theo quy định tại Nghị định số
79/2007/NĐ-CP và Nghị định số 04/2012/NĐ-CP thì việc chứng thực bản sao từ bản
chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ chỉ
thuộc thẩm quyền của Phòng Tư pháp, do đó gây ách tắc, quá tải tại Phòng Tư
pháp, gây phiền hà cho người dân.
- Mặc dù tại khoản 2 Điều 6 của Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP đã quy định cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao không có
chứng thực có quyền yêu cầu đương sự xuất trình bản chính để đối chiếu, song
quy định này không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Hiện nay, tình trạng lạm
dụng bản sao có chứng thực ngày càng trở nên phổ biến, gây ra sự phiền hà, lãng
phí tiền của, thời gian, công sức của người dân, làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính
của cán bộ chứng thực là quản lý nhà nước và gây lãng phí cho Ngân sách.
-
Thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của
Thủ tướng Chính phủ, UBND cấp huyện và cấp xã trên toàn quốc đã tổ chức triển
khai thực hiện thủ tục chứng thực tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ
chế một cửa, một cửa liên thông. Việc triển khai hoạt động chứng thực theo cơ
chế “một cửa” tạo thuận lợi hơn, giảm bớt thời gian giải quyết yêu cầu chứng thực
của tổ chức, cá nhân.
Nhưng để thực hiện nguyên tắc ký
trước mặt người thực
hiện chứng thực theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì người yêu cầu chứng thực chữ ký ở Phòng
Tư pháp cấp huyện, sau khi nộp hồ sơ ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ
chế “một cửa” phải
đến Phòng Tư pháp để thực hiện việc ký trước mặt người có thẩm quyền chứng thực
rồi mới được nhận kết quả, vừa
chưa đúng nguyên tắc “một cửa”, vừa gây phiền hà, lãng phí về thời gian đối với người
có yêu cầu chứng thực.
-
Quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động chứng thực còn
tản mạn, chưa thống nhất, đồng bộ: việc
chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký được thực hiện theo quy định của Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/1/2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định số
06/2012/NĐ-CP ngày 2/2/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ
tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực và các văn bản hướng dẫn thi hành các Nghị
định này.
Bên cạnh đó, sau khi Luật Công chứng được
Quốc hội thông qua, tách bạch giữa hoạt động công chứng và chứng thực thì chủ
trương chuyển giao hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân sang các tổ chức hành
nghề công chứng đã được các địa phương triển khai thực hiện. Tuy nhiên, do các
tổ chức hành nghề công chứng chưa “phủ sóng” được đến hầu hết các địa bàn nên một
số Ủy ban nhân dân vẫn thực hiện chứng thực hợp đồng giao dịch theo quy định của
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.
Sau khi Luật Công chứng có hiệu lực thi hành thì Nghị định này chỉ còn hiệu lực
một phần, đó là phần quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch (nội dung quy định
về công chứng đã hết hiệu lực do được thay thế bởi Luật Công chứng, nội dung
quy định về chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký đã được thay thế
bởi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký). Mặt khác, sau hơn 10 năm thi hành
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì một số quy định của Nghị định này về chứng thực
hợp đồng, giao dịch đã lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
Do đó, việc ban hành
một Nghị định mới về chứng
thực (Nghị định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch) theo chúng tôi là rất cần thiết.
Nghị định sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập hiện hiện nay như: mở rộng thẩm
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã cũng được chứng thực giấy tờ, văn bản song ngữ
để giải tỏa ách tắc, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân; quy định chặt chẽ hơn
về những trường hợp cơ quan, tổ chức phải tự tổ chức đối chiếu bản sao với bản
chính, không được yêu cầu nộp bản sao có chứng thực; cho phép người yêu cầu chứng thực chữ ký ký trước mặt người tiếp nhận hồ
sơ; quy định cụ thể hơn về phạm vi chứng thực hợp đồng, giao dịch của Ủy ban nhân
dân cũng như quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch
cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay…Nghị định này sẽ tạo cơ sở pháp lý
thống nhất cho hoạt động chứng thực, thuận lợi cho việc áp dụng và nghiên cứu
pháp luật là tiền đề cho sự phát triển ổn định, nền nếp của hoạt động chứng
thực trong thời gian tới./.
Vi Thị Lệ Hằng