Căn cứ nào để xác định thành viên hộ gia đình?

(16/12/2013)

Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 43 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai thì: “Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì ghi họ, tên chủ hộ”. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều này thì: “Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng thì ghi cả họ tên vợ và họ, tên chồng; trường hợp hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên chồng thì phải có văn bản thỏa thuận của vợ và chồng có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”.

Như vậy, các quy định này không nêu phải ghi rõ tên của mọi thành viên hộ gia đình trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (điểm a khoản 3 Điều 43 nêu trên cũng chỉ quy định ghi tên vợ và chồng, không quy định ghi tên những thành viên khác). Vì vậy, cán bộ chứng thực không thể căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định thành viên của hộ gia đình khi chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 146 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì: “Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Việc căn cứ quy định của pháp luật về dân sự để xác định thành viên hộ gia đình hiện nay cũng còn gặp nhiều khó khăn và có nhiều ý kiến khác nhau. Theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Dân sự thì: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Do đó, căn cứ quy định này, có quan điểm cho rằng thành viên hộ gia đình là những người thỏa mãn các điều kiện sau: có tài sản chung; cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng chỉ căn cứ quy định này để xác định thành viên hộ gia đình là chưa đầy đủ, mà các cá nhân là thành viên hộ gia đình còn phải có quan hệ hôn nhân/ nuôi dưỡng hoặc huyết thống (hiểu theo tinh thần khái niệm gia đình trong Luật Hôn nhân và Gia đình).

Có quan điểm khác lại cho rằng khi thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, chỉ cần căn cứ vào việc xác định tài sản chung của hộ gia đình và nguồn gốc tài sản quy định tại Điều 108 của Bộ luật Dân sự. Theo Điều luật này thì: “Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ”. Tuy nhiên, quan điểm khác lại cho rằng quy định này chỉ nêu lên tài sản chung của hộ gia đình bao gồm những loại tài sản gì; nguồn gốc của một số loại tài sản nhưng không phải là quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng. Người thực hiện chứng thực không thể căn cứ quy định này để xác định thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất.

Chính vì những quy định pháp luật còn mang tính chất “nửa vời” như vậy, nên khi chứng thực hợp đồng, văn bản về quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cán bộ chứng thực gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc xác định đầy đủ thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình; dẫn đến việc chứng thực hợp đồng, văn bản về quyền sử dụng đất của hộ gia đình khó đảm bảo chính xác, đúng pháp luật.

Vì vậy, thiết nghĩ, để giải quyết vấn đề này, các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đất đai cần có quy định rõ theo hướng:“Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình thì ghi họ, tên chủ hộ và họ, tên các thành viên của hộ gia đình đó.” Việc ghi tên đầy đủ các thành viên của hộ gia đình khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như vậy sẽ giải quyết được khó khăn, vướng mắc hiện nay, trong khi đó việc này lại không phức tạp, phù hợp với chức năng, thẩm quyền của cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các cơ quan có liên quan (trong đó có cơ quan chứng thực) không phải mất thời gian, công sức để xác minh hoặc xem xét giấy tờ có liên quan để xác định thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình, mà nhiều khi việc xác minh hoặc xem xét giấy tờ này lại rất khó khăn, phức tạp, tăng thêm gánh nặng giấy tờ cho người dân.

 

Nguyễn Thu Hương


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang