Một số suy nghĩ về việc xây dựng quy định chứng thực hợp đồng, giao dịch

(16/12/2013)

Thực hiện chủ trương tách bạch hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng; ngày 18/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Việc ban hành Luật Công chứng và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực, bước đầu phân tách một cách cơ bản hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực.

Theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành thì hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch sẽ phải chuyển giao từ UBND cấp huyện, cấp xã cho tổ chức hành nghề công chứng. Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành quyết định chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ UBND sang các tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá công chứng chưa đồng đều, có địa bàn “phát triển nóng” – có quá nhiều tổ chức hành nghề công chứng – chủ yếu là các thành phố lớn, thị xã, huyện lỵ. Phần lớn các địa bàn còn lại (khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, kém phát triển) thì việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng lại chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.

Do đó, để đáp ứng nhu cầu và tạo thuận lợi cho người dân, thì tại nhiều địa phương, UBND vẫn thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực; Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTNMT-BTP ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì khi thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch, người thực hiện chứng thực có trách nhiệm: xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu chứng thực và xét thấy nội dung hợp đồng đã được soạn thảo sẵn không trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì thực hiện chứng thực. Trong trường hợp nội dung hợp đồng trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc được soạn thảo không đạt yêu cầu, thì hợp đồng phải được sửa đổi, bổ sung; nếu người yêu cầu chứng thực không đồng ý với việc sửa đổi, bổ sung đó, thì không chứng thực. Như vậy, người thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch và văn bản được chứng thực có giá trị ngang với văn bản được công chứng. Thực tế cho thấy, với sự đa dạng, phức tạp của các hợp đồng, giao dịch hiện nay thì trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác chứng thực tại UBND cấp huyện, cấp xã sẽ khó đáp ứng được. Tuy nhiên, nếu bãi bỏ thẩm quyền chứng thực hợp, giao dịch của UBND là không phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Do đó, đòi hỏi phải có nghiên cứu về chế định chứng thực hợp đồng, giao dịch phục vụ việc xây dựng Luật Chứng thực trong thời gian tới. Theo chúng tôi, quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch nên được xây dựng theo hướng người thực hiện chứng thực sẽ không phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch như hiện nay vì những lý do sau đây:

 Thứ nhất, về bản chất chứng thực là việc các cơ quan hành chính nhà nước xác nhận tính có thực, tính xác thực của giấy tờ, văn bản, chữ ký và hợp đồng, giao dịch. Theo đó, đối với hợp đồng, giao dịch người thực hiện chứng thực chỉ xác nhận tính có thực của hợp đồng, giao dịch: thời gian, địa điểm, năng lực hành vi và sự tự nguyện của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch là phù hợp với bản chất của quy định chứng thực;

Thứ hai, với các nội dung xác nhận nêu trên người thực hiện chứng thực đặc biệt là cán bộ Tư pháp – hộ tịch, có khả năng thực hiện tốt bởi họ ở gần đối tượng giao dịch, phần lớn các trường hợp nắm rõ về nhân thân chủ thể, đối tượng giao dịch, có mối quan hệ quen biết với chủ thể giao dịch nên việc tiến hành thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch thường thuận tiện, nhanh gọn do giảm bớt thời gian xác minh. Ngoài ra, quy định này cũng phù hợp với năng lực chuyên môn của người thực hiện chứng thực;

Thứ ba, người dân – khách hàng của hoạt động chứng nhận, chứng thực sẽ là người lựa chọn “sản phẩm” phù hợp với họ. Quy định pháp luật chứng thực, công chứng cần trao cho người dân có quyền lựa chọn cơ quan thực hiện (hoặc tổ chức hành nghề công chứng, hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực) để người dân thực hiện quyền tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm về quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

 

Hoàng Thị Hồng


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang