BÀI PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO CỦA BỘ TRƯỞNG TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT HỘ TỊCH

(22/07/2015)

Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 2015

Thưa các đồng chí,

Hôm nay, thực hiện Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Luật hộ tịch. Thay mặt Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, tôi xin chúc các đồng chí Lãnh đạo, đại diện Lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành ở Trung ương, Lãnh đạo, đại diện Lãnh đạo Ủy ban nhân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và toàn thể các đồng chí tham dự Hội nghị tại điểm cầu Hà Nội và 62 điểm cầu trên cả nước sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!

Thưa các đồng chí,

Như chúng ta đều biết, đăng ký và quản lý hộ tịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, luôn được các quốc gia quan tâm thực hiện. Thông qua hoạt động này, Nhà nước tạo cơ sở pháp lý  để người dân được thực hiện các quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân và để Nhà nước bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử từ lâu (thời nhà Trần). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được Nhà nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Trong thời kỳ đổi mới, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình và các luật liên quan, Chính phủ đã ban hành tổng cộng 8 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch (cả hộ tịch trong nước và hộ tịch có yếu tố nước ngoài). Đồng thời Nhà nước ta cũng đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương, đa phương liên quan đến việc công nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hộ tịch, qua đó, thực hiện ngày một đầy đủ và hiệu quả hơn trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài cũng như của người nước ngoài, người không quốc tịch ở Việt Nam trong bối cảnh các giao lưu dân sự, thương mại, văn hóa ngày càng đa dạng, phổ biến cùng với quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện của nước ta với thế giới.

Thực hiện các văn bản nêu trên, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta đã có những bước phát triển ổn định, đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể: công tác xây dựng thể chế được tăng cường; việc phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch ngày càng được coi trọng; hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch từ Trung ương đến cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn, nhờ đó đã giải quyết được số lượng lớn yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân, trong đó nhiều việc có yếu tố nước ngoài; trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từng bước được đơn giản hóa, ngày càng tạo thuận lợi cho người dân; dữ liệu hộ tịch được hình thành với hệ thống sổ sách hộ tịch được lưu trữ, sử dụng lâu dài; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch được triển khai với mức độ khác nhau ở nhiều địa phương...Với những kết quả đã đạt được, công tác hộ tịch ngày càng khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng đối với quản lý nhà nước và xã hội, góp phần bảo đảm ngày một tốt hơn các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, với việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, thì công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém, trong đó nổi lên là: (I) chất lượng công tác đăng ký hộ tịch chưa cao, vẫn còn nhiều sai sót, có việc gây bức xúc, nhất là tình trạng lợi dụng đăng ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hưởng trái pháp luật các chính sách ưu đãi của nhà nước có dấu hiệu gia tăng; (II) hiệu quả công tác quản lý hộ tịch chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều trường hợp cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch không nắm được đầy đủ dữ liệu hộ tịch cá nhân; công tác hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra không được tiến hành thường xuyên, thiếu kịp thời; (III) công tác cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa giấy tờ hộ tịch tuy đã được quan tâm nhưng vẫn chưa thực sự tạo thuận lợi cho người dân trong giải quyết các yêu cầu hộ tịch; (IV) phương thức đăng ký hộ tịch còn mang tính thủ công; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch còn chưa đồng đều, cơ sở dữ liệu hộ tịch còn phân tán, không xâu chuỗi, kết nối được với nhau, khả năng tra cứu, khai thác phục vụ yêu cầu của người dân và của cơ quan, tổ chức rất hạn chế; (V) trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch chưa đáp ứng được yêu cầu…

Những bất cập, hạn chế, yếu kém trên đây, một mặt làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây khó khăn, phiền hà cho người dân, mặt khác làm giảm hiệu quả quản lý dân cư, quản lý nhà nước và xã hội. Bên cạnh đó, trên phương diện quốc tế, trong nhiều trường hợp, giấy tờ hộ tịch chưa đạt được sự tin cậy cao đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; trong một số trường hợp gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thưa các đồng chí,

Nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục những tồn tại, bất cập và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước ta trong thời kỳ mới, ngày 20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật hộ tịch, đồng thời với Luật căn cước công dân.

Việc Quốc hội thông qua Luật hộ tịch được xem là bước ngoặt quan trọng trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói chung. Đây là lần đầu tiên ở nước ta có văn bản ở tầm Luật để quy định riêng về lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các Nghị định của Chính phủ. Có thể khẳng định đây là bước hoàn thiện căn bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của nước ta, đặc biệt, khi phân tích những nội dung mới, mang tính đột phá, hay nói cách khác là ”cách mạng” trong Luật hộ tịch. Có thể khái quát thành 5 điểm như sau:

Thứ nhất, Luật tiếp tục đề cao tầm quan trọng của việc đăng ký khai sinh và cấp Giấy khai sinh, gắn việc đăng ký khai sinh với việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh. Đây là bước đột phá quan trọng, tạo tiền đề cho công tác quản lý hộ tịch, quản lý dân cư theo hướng hiện đại.

Thứ hai, Luật hộ tịch quy định việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý hộ tịch nhằm lưu giữ thông tin hộ tịch cá nhân, đồng thời kết nối, cung cấp thông tin đầu vào cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Với hai cơ sở dữ liệu quan trọng này, thông tin hộ tịch của người dân sẽ được quản lý tập trung, thống nhất; các bộ, ngành, địa phương có thể khai thác, sử dụng thông tin công dân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để giải quyết các yêu cầu của người dân một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Thứ ba, Luật có nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ TTHC trong đăng ký hộ tịch (như rút ngắn thời gian giải quyết, đơn giản hóa hồ sơ, cắt giảm giấy tờ và loại bỏ một số quy trình hình thức để tránh gây phiền hà cho người dân);

Thứ tư, Luật phân cấp thêm một bước về thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho cấp chính quyền cơ sở, chuyển thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài từ UBND cấp tỉnh cho UBND cấp huyện, tạo điều kiện để UBND cấp tỉnh tập trung thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về công tác hộ tịch.

Thứ năm, Luật cũng có nhiều quy định nhằm hạn chế sai sót, vi phạm có thể xảy ra trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch (như: quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, trách nhiệm của công chức làm công tác hộ tịch, trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp khi để xảy ra sai phạm trong lĩnh vực này tại địa phương; quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm trong đăng ký và quản lý hộ tịch; quy định việc thu hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch được cấp trái thẩm quyền, sai quy định của Luật hộ tịch v.v…).

Với những điểm mới, mang tính “cách mạng” nêu trên, Luật hộ tịch khi được thực hiện hiệu quả trong thực tế sẽ có tác động mạnh mẽ tới nhận thức và cả cách thức người dân thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch, giảm một cách đáng kể chi phí thực hiện thủ tục hành chính của cả người dân và cơ quan nhà nước. Việc đăng ký đầy đủ, kịp thời tất cả các sự kiện hộ tịch của người dân (đặc biệt là việc khai sinh, khai tử, kết hôn) theo phương thức hiện đại sẽ giúp cho cơ quan nhà nước thống kê kịp thời, toàn diện số liệu đăng ký hộ tịch, nhiều thông tin quan trọng liên quan đến dân cư, phục vụ cho việc hoạch định chính xác các chính sách kinh tế, văn hóa, y tế, xã hội… liên quan đến người dân.

Thưa các đồng chí,

Để triển khai thi hành Luật hộ tịch với một khối lượng rất lớn công việc, trong đó có nhiều việc mới, chưa có tiền lệ ở Việt Nam, Quốc hội đã dành thời gian hơn 1 năm để chuẩn bị các điều kiện cần thiết đưa Luật vào cuộc sống. Và ngay từ tháng 01/2015, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 59/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Luật trong đó xác định 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm như: (1) Xây dựng văn bản quy định chi tiết thi hành Luật; (2) Tổ chức rà soát các VBQPPL liên quan đến Luật hộ tịch để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; (3) Phổ biến, tuyên truyền về Luật hộ tịch; (4) Xây dựng, triển khai Đề án về cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; (5) Rà soát, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hộ tịch, kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, đáp ứng các tiêu chuẩn bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong Luật. Kế hoạch cũng đã xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật.

Thực hiện Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, Bộ Tư pháp, nhiều Bộ, ngành và địa phương đã ban hành kế hoạch và bước đầu triển khai một số công việc. Tại Hội nghị hôm nay, bên cạnh việc quán triệt những nội dung mới của Luật, đánh giá những kết quả đã đạt được trong công tác chuẩn bị triển khai thi hành Luật thời gian qua; tham gia ý kiến đối với dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật và Đề án về cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, tôi đề nghị các đại biểu tham dự Hội nghị tập trung thảo luận về những vấn đề cần tiếp tục triển khai trong thời gian tới, phân tích, làm rõ những khó khăn, thách thức đã, đang và sẽ gặp phải trong quá trình chuẩn bị triển khai những nội dung mới của Luật, để từ đó tìm ra cách làm hay, giải pháp đột phá bảo đảm cho việc triển khai thi hành Luật hộ tịch trên phạm vi cả nước kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.

Thưa các đồng chí,

Luật hộ tịch đã được thông qua, nhưng tính “cách mạng”, tính hiệu quả của Luật sẽ phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch. Tầm quan trọng của công tác đăng ký, quản lý hộ tịch, các yêu cầu nghiêm ngặt của công tác đăng ký hộ tịch về tính khách quan, trung thực, chính xác đòi hỏi công chức Tư pháp, nhất là công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã phải có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp và trách nhiệm, đạo đức công vụ cao, đồng thời phải luôn cập nhật những kỹ năng nghiệp vụ mới, hiện đại.  Chỉ có như vậy, việc tổ chức thi hành Luật mới thực sự hiệu quả, đúng như Bác Hồ thường nhấn mạnh cái gốc của mọi vấn đề là cán bộ, là con người. Thực ra, việc chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã đã được quy định từ Nghị định số 83 năm 1998, sau đó là Nghị định số 158 năm 2005 của Chính phủ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, những quy định này thời gian qua được thực hiện chưa nghiêm; hiện vẫn còn khoảng 30% công chức Tư pháp – hộ tịch cấp xã chưa đáp ứng được tiêu chuẩn do Chính phủ quy định. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến những tồn tại, hạn chế, yếu kém hiện nay trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch.

Việc luật hóa quy định về tiêu chuẩn công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã, như phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên, đầu vào phải được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, bổ sung quy định phải có trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc và được thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ trong suốt quá trình thực thi nhiệm vụ là rất cần thiết, nhằm bảo đảm thực hiện tốt các quy định mới của Luật. Đồng thời, Luật quy định rất cụ thể trách nhiệm, chế tài xử lý đối với công chức Tư pháp – hộ tịch có sai phạm; quy định trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp tỉnh, huyện, xã trong việc bố trí công chức Tư pháp – hộ tịch không đúng yêu cầu hoặc để xảy ra sai phạm trên địa bàn do buông lỏng quản lý. Việc kiện toàn tổ chức, cán bộ và nâng cấp cơ sở vật chất của Tư pháp cấp huyện để nhận chuyển giao các nhiệm vụ đăng ký hộ tịch từ cấp tỉnh, bao gồm cả đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, cũng cần được triển khai đồng bộ, khẩn trương để đảm bảo tính thông suốt, thống nhất và hiệu quả của cả hệ thống đăng ký, quản lý hộ tịch.

Tôi tin tưởng rằng với những quy định mới của Luật hộ tịch, trong đó có những quy định về cán bộ làm công tác hộ tịch như đã nêu trên, cùng với sự quan tâm của các Bộ, ngành, địa phương và với kết quả thu được tại Hội nghị hôm nay, nhất định từ 01/01/2016 tới đây chúng ta sẽ triển khai thực hiện tốt Luật hộ tịch, đáp ứng yêu cầu khách quan của công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

Với tinh thần đó, tôi xin khai mạc Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Luật hộ tịch. Một lần nữa, chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang