Vài suy nghĩ về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chứng thực

(28/10/2014)

Pháp luật về chứng thực là pháp luật về hình thức (pháp luật về thủ tục). Vì vậy, việc áp dụng và thực hiện pháp luật về chứng thực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chứng thực, là các quy định về nội dung thuộc các chuyên ngành khác nhau như: dân sự, đất đai, nhà ở... Có một số ý kiến cho rằng việc xây dựng Luật Chứng thực cần quy định tổng thể, toàn bộ tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng thực, bao gồm cả các vấn đề về đất đai, nhà ở… để tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho hoạt động chứng thực. Tuy nhiên, đây là điều không thể vì đất đai, nhà ở… là đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của các chuyên ngành khác, vì vậy pháp luật về chứng thực không thể điều chỉnh hết được. Thời gian qua, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chứng thực đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện, tạo thuận lợi cho người thực hiện chứng thực. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các văn bản này vẫn còn bộc lộ một số bất cập, cần được tiếp tục khắc phục, thể hiện trên một số nội dung sau:

- Điều 83 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật như sau: “2.Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. 3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau”. Như vậy, quy định về xác định giá trị pháp lý của các văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 83 còn thiếu, chưa bao quát đầy đủ, gây khó khăn khi áp dụng: đó là các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác nhau ban hành, nhưng có hiệu lực pháp lý ngang nhau (VD: Thông tư của Bộ Công an và Thông tư của Bộ Tư pháp cùng quy định về vấn đề liên quan đến chứng thực) thì áp dụng quy định của thông tư nào? Trường hợp này không thể áp dụng quy định tại Điều 83 vì các thông tư này có hiệu lực pháp lý ngang nhau và không phải do cùng một cơ quan ban hành.

- Luật Đất đai 2013 mới được ban hành và có hiệu lực từ 1/7/2014 đã có một số quy định tiến bộ, tạo thuận lợi cho người thực hiện chứng thực khi chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến đất đai như quy định phải ghi rõ đầy đủ tên của thành viên có quyền sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng, tạo thuận lợi cho người thực hiện chứng thực. Tuy nhiên, Điều 98 của Luật Đất đai năm 2013 vẫn giữ quy định chỉ ghi tên vợ (hoặc chồng) trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có thỏa thuận của vợ và chồng về việc chỉ ghi tên một người trong Giấy này, gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực trong việc xác định tài sản chung – riêng của vợ chồng trong trường hợp Giấy chứng nhận chỉ ghi tên một người.

- Luật Nhà ở: Đất đai và nhà ở là một khối bất động sản gắn liền, tuy nhiên thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch giữa Luật Đất đai và Luật Nhà ở lại không thống nhất, gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực trong việc xác định thẩm quyền. Cụ thể, theo Luật Đất đai năm 2003 trước đây và Luật Đất đai 2013 hiện nay thì UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến đất đai, còn theo Luật nhà ở năm 2005 thì UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở tại đô thị và UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở tại nông thôn.Sự không thống nhất trong quy định về thẩm quyền chứng thực giữa luật Đất đai và Luật Nhà ở đã gây khó khăn cho việc chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến nhà đất vì người dân phải đến hai cơ quan khác nhau để thực hiện .

- Chưa có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã dẫn tới bộ, ngành này lại quy định về nội dung công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành khác. Cụ thể, Thông tư số 20/2010/TT-BGTVT ngày 30/7/2010 của Bộ Giao thông vận tải quy định về cấp, đổi, thu hồi đăng ký, biển số xe máy chuyên dùng có tham gia giao thông đường bộ, tại mẫu Giấy bán, cho, tặng xe máy chuyên dùng ban hành kèm theo Thông tư này đã quy định phải có xác nhận của chính quyền cấp xã nơi người bán, cho, tặng đăng ký thường trú (Nội dung xác nhận là chứng thực chữ ký của người bán, cho, tặng xe máy chuyên dùng) và Thông tư số 15/2014/TT- BCA ngày 4/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe đã quy định Giấy bán, cho, tặng xe phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực. Các văn bản này có quy định về nghiệp vụ chứng thực(chứng thực chữ ký trong Giấy bán, cho, tặng xe) nhưng không có sự phối hợp với Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác chứng thực. Về vấn đề này hiện vẫn còn có quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, để tạo thuận lợi cho người dân, có thể vận dụng cho thực hiện chứng thực chữ ký trong giấy bán, tặng, cho xe; quan điểm khác lại cho rằng việc bán, tặng, cho xe thực chất là hợp đồng, giao dịch do đó phải được chứng thực theo thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch.Vì vậy hiện nay nhiều địa phương vẫn còn lúng túng, chưa dám thực hiện theo quy định tại Thông tư số 15/2014/TT- BCA. Hơn nữa, nếu theo quy định của pháp luật về chứng thực thì cả Phòng Tư pháp và UBND cấp xã đều có thẩm quyền chứng thực chữ ký, tuy nhiên nếu theo Thông tư số 15/2014/TT- BCA và Thông tư số 20/2010/TT-BGTVT thì chỉ UBND cấp xã mới có thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy bán, tặng, cho xe. Sự mâu thuẫn này dễ dẫn đến vận dụng sai quy định của pháp luật khi áp dụng./.

Nguyễn Thu Hương


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang