Tình hình thực hiện công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có quy định về thủ tục hành chính theo nội dung yêu cầu của Chỉ thị 17/CT-TTg trên phạm vi toàn quốc

(05/08/2015)

Việc thực hiện hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có nội dung quy định về thủ tục hành chính theo yêu cầu của Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực khi thực hiện thủ tục hành chính là một nội dung rất quan trọng trong công tác chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực, đặc biệt việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Bởi lẽ văn bản quy phạm pháp luật quy định về thành phần hồ sơ khi thực hiện thủ tục hành chính chính là căn cứ pháp lý để cơ quan, tổ chức thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ hoặc ban hành văn bản hành chính (Công văn, thông báo…) yêu cầu về thành phần hồ sơ. Do đó, nếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cấp, các ngành, các địa phương ban hành đều có nội dung quy định việc sử dụng bản sao có chứng thực một cách hợp lý, thiết thực, tránh tràn lan thì đây là nền tảng cơ bản, vững chắc của quá trình chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực.

1. Kết quả rà soát

Có thể nói, đến thời điểm hiện nay công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có nội dung quy định về thủ tục hành chính theo yêu cầu của Chỉ thị số 17/CT-TTg trên phạm vi toàn quốc đã hoàn tất. Hầu hết các Bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc rà soát theo đúng tiến độ và yêu cầu đặt ra. Trên cơ sở Báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg  do các Bộ, ngành và địa phương gửi về cũng như kết quả kiểm tra thực tế tại một số địa phương của Bộ Tư pháp cho thấy việc rà soát, lập danh mục văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có nội dung trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới thay thế đã được các Bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc, bài bản và đạt được một số kết quả cơ bản như sau: 

  • Tại các Bộ, ngành:

Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đã nghiêm túc, tích cực tổ chức rà soát, lập danh mục các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực có quy định về thủ tục hành chính trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Kết quả rà soát cho thấy, không có văn bản quy phạm pháp luật nào thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp có quy định thủ tục hành chính trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP. Bên cạnh Bộ Tư pháp, có 6 Bộ, cơ quan ngang Bộ không phát hiện văn bản thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước có nội dung trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, đó là: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Dân tộc của Quốc Hội, Thanh tra Chính phủ, Bộ Ngoại giao; Bộ Khoa học và Công nghệ.

         Ngoài các Bộ nêu trên thì một số Bộ sau khi phát hiện một số văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình có nội dung yêu cầu về thành phần hồ sơ không phù hợp với yêu cầu của Chỉ thị 17/CT-TTg đã lên kế hoạch hoặc đang thực hiện sửa đổi, bổ sung/tham mưu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đó là: Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện 27 văn bản quy phạm pháp luật có nội dung không phù hợp; Bộ Y tế phát hiện còn 119 thủ tục hành chính thuộc 16 văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ có nội dung không phù hợp; Ngân hàng Nhà nước phát hiện có 38 văn bản quy phạm pháp luật có nội dung không phù hợp; Bộ Công Thương phát hiện 57 thủ tục hành chính ở cấp Trung ương và 27 thủ tục hành chính ở cấp địa phương có nội dung không phù hợp; Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hiện 24 thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ có nội dung không phù hợp; Bộ Giao thông vận tải đã thực hiện rà soát tổng thể 532 thủ tục hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tiến hành rà soát, lập danh mục  để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

        Riêng Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch đã phát hiện 01 Thông tư (Thông tư số 03/2013/TT-BVHTTDL ngày 28/1/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 79/2012/NĐ-CP ngày 5/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp, người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu) có nội dung quy định về thủ tục hành chính trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và Bộ đã kịp thời ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung nội dung không phù hợp này (đó là Thông tư số 19/2014/TT-BVHTTDL ngày 8/12/2014).

-Tại các địa phương:

Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và UBND cấp huyện tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính do các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ban hành có nội dung quy định về thủ tục hành chính trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP. Kết quả rà soát như sau:

+ Có một số địa phương không phát hiện văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính nào có nội dung trái với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, đó là: Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Lào Cai, Bình Thuận, Cao Bằng, Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thừa Thiên - Huế…

         + Bình Dương: phát hiện 65 văn bản với 438 thủ tục hành chính có nội dung không phù hợp; Cà Mau phát hiện 6/32 văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành  và 2/52 văn bản hành chính có nội dung không phù hợp; Hà Tĩnh: phát hiện 01 Quyết định do UBND tỉnh ban hành có nội dung không phù hợp; Lâm Đồng phát hiện 11/11 văn bản có nội dung không phù hợp; Trà Vinh phát hiện 50% văn bản có nội dung không phù hợp; Hà Nội phát hiện 02 văn bản có nội dung không phù hợp; Quảng trị : phát hiện một số văn bản hành chính có nội dung không phù hợp nhưng cơ quan, tổ chức tiếp nhận hồ sơ đã chủ động thực hiện tiếp nhận hồ sơ theo quy định tại Điều 6 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP. Bình Định: phát hiện có 05 Quyết định của UBND tỉnh có nội dung không phù hợp (UBND tỉnh đã có văn bản chỉ đạo các Sở có liên quan xây dựng văn bản sửa đổi, bổ sung) và 01 văn bản của UBND cấp xã có nội dung không phù hợp, 38 quy trình giải quyết thủ tục hành chính của các sở ngành có nội dung không phù hợp (đã sửa đổi kịp thời); TP Hồ Chí minh: phát hiện 19/24 văn bản quy phạm pháp luật, 06 văn bản hành chính do UBND thành phố ban hành, 21 văn bản hành chính do sở, ngành hoặc cơ quan, đơn vị trực thuộc sở, ngành ban hành, 04 văn bản  hành chính cấp huyện của HĐND, UBND  quận, huyện ban hành có nội dung không phù hợp và đã dược xử lý theo quy định; Bà Rịa – Vũng Tàu: phát hiện một số văn bản có nội dung không phù hợp; Bắc Giang: phát hiện 1 văn bản hành chính có nội dung không phù hợp và đã tiến hành sửa đổi, bổ sung…

 Như vậy, nhìn chung các Bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính theo đúng yêu cầu của Chỉ thị 17/CT-TTg. Song, bên cạnh đó cũng cần phải nói rằng vẫn còn một vài địa phương do hiểu sai yêu cầu của Chỉ thị, chỉ rà soát đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực công chứng, chứng thực, không rà soát đối với các văn bản thuộc lĩnh vực khác nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, do việc rà soát được tiến hành trên cơ sở căn cứ vào quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, trong khi Điều 6 không quy định cụ thể là: “Cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực hoặc nộp bản sao kèm theo xuất trình bản chính để đối chiếu” mà chỉ quy định: “Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu,” do đó hầu hết các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình rà soát chỉ xác định những văn bản nào có nội dung yêu cầu tổ chức, cá nhân “ nộp bản sao từ sổ gốc/bản sao được chứng thực từ bản chính và xuất trình bản chính để đối chiếu” mới trái với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; còn đối với các trường hợp văn bản có nội dung quy định “cứng”: “phải nộp bản sao có chứng thực” nhưng không yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu thì nhiều cơ quan, đơn vị trong quá trình rà soát không xác định những văn bản này là trái với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP. Riêng một số cơ quan, đơn vị nếu xác định những văn bản  này là trái với nội dung của Chỉ thị 17/CT-TTg và Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì cũng còn băn khoăn về cơ sở pháp lý vì Chỉ thị không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Đó là lý do tại sao kết quả rà soát vừa qua của nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn cho thấy 100% văn bản có nội dung phù hợp với Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

           Riêng đối với công tác sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung không phù hợp thì vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguyên nhân là do việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật là việc làm phức tạp, phải tuân theo quy trình do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định với nhiều quy trình, thủ tục và qua nhiều cấp khác nhau, do đó cần nhiều thời gian. Trong khi đó, việc triển khai thực hiện Chỉ thị mới diễn ra trong thời gian chưa dài.

       Ngoài ra, bên cạnh đó quá trình thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có nội dung không phù hợp để thay thế, sửa đổi còn gặp phải một số khó khăn sau:

    - Đội ngũ công chức thực hiện công tác rà soát văn bản ở một số địa phương hầu hết là kiêm nhiệm, không được đào tạo chuyên ngành về luật nên quá trình thực hiện rà soát, tham mưu sửa đổi còn nhiều lúng túng. Có địa phương biên chế thực hiện công tác pháp chế ở các sở, ngành không đảm bảo; có địa phương phần lớn các sở, ngành trên địa bàn tỉnh đều chưa thành lập được Phòng Pháp chế nên cũng gây khó khăn cho công tác rà soát văn bản;

     - Một số thủ tục hành chính do Bộ, ngành Trung ương ban hành (chủ yếu là thông tư, thông tư liên tịch) quy định thành phần hồ sơ “nộp bản sao có chứng thực” chưa được sửa đổi nên việc đề xuất sửa đổi văn bản quy định về thủ tục hành chính tại địa phương cũng gặp vướng mắc. Bên cạnh đó, hiện nay, đa phần các quy định pháp luật chỉ quy định thành phần hồ sơ là “Bản sao” “Bản sao hợp lệ”, không quy định là bản sao có chứng thực hay bản sao “không có chứng thực” nên khi áp dụng không rõ ràng, dễ dẫn đến tùy tiện.

      - Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính hiện nay phải dựa vào văn bản quy phạm pháp luật được ban hành mới hoặc được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành và được Bộ, ngành công bố, tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính. Do đó, một số cơ quan, đơn vị còn tâm lý chờ văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành và kết hợp sửa đổi, bổ sung một lúc, tránh việc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều lần, mất nhiều thời gian soạn thảo, trình ban hành và công bố công khai nên tiến độ khắc phục còn chậm.

      

2.Kiến nghị

        Từ ngày 9/4/2015, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP sẽ hết hiệu lực và được thay thế bởi Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực từ 10/4/2015). Văn bản này là căn cứ pháp lý để rà soát văn bản theo quy định tại Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 của Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và Thông tư số 09/2013/TT-BTP ngày 15/6/2013 quy định chi tiết thi hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP. Tại Điều 6 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã quy định rõ tổ chức, cá nhân khi thực hiện thủ tục hành chính có quyền lựa chọn một trong 3 phương án sau: - Nộp bản sao có chứng thực; - Nộp bản sao được cấp từ sổ gốc; - Nộp bản sao (không có chứng thực) kèm theo xuất trình bản chính để người tiếp nhận hồ sơ đối chiếu. Như vậy, đây là căn cứ pháp lý vững chắc, cụ thể để các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát triệt để các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính, thực sự tạo thuận lợi cho người dân, tạo chuyển biến rõ nét trong công tác chấn chỉnh tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực. Vì vậy, đề nghị cần tiếp tục tổ chức triển khai rà soát văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính Giai đoạn II theo nội dung của Điều 6 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Trong Giai đoạn II này, nếu văn bản nào chưa trao quyền lựa chọn cho tổ chức, cá nhân trong việc nộp bản sao thì văn bản đó được xác định là trái với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Riêng đối với một số lĩnh vực đặc thù, nếu xét thấy cần thiết thì có thể có báo cáo gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ vẫn cho phép được yêu cầu nộp bản sao có chứng thực, nhưng cần có giải trình cụ thể./.

Nguyễn Thu Hương


Các tin đã đưa ngày:
                                  
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
  • Lượt truy cập:
Chung nhan Tin Nhiem Mang