Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam và Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch thì để xác định có thể tính đến phương án như sau:
Áp dụng quy định tại Điều 15 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (trẻ em khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam, không kể trẻ em đó sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam) để xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ. Theo đó, không phải làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam mà chỉ cần làm thủ tục đăng ký lại việc khai sinh cho trẻ hoặc xác nhận có quốc tịch Việt Nam (theo huyết thống). Cha (mẹ) của trẻ có thể đề nghị Sở tư pháp xác nhận quốc tịch Việt Nam cho trẻ hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã/phường nơi cư trú vận dụng quy định tại Mục 4, Chương III Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch để tiến hành đăng ký lại việc sinh cho trẻ; ghi quốc tịch trong giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh là quốc tịch Việt Nam. Đây là phương án đơn giản và hoàn toàn phù hợp với pháp luật hiện nay. Với phương án này cũng khẳng định pháp luật Việt Nam không thừa nhận việc công dân Việt Nam có 2 quốc tịch (quốc tịch Việt Nam - quốc tịch nước ngoài) do xung đột pháp luật về quốc tịch. Vì theo quy định tại Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì chỉ trong một số trường hợp đặc biệt (được Chủ tịch nước cho phép hoặc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam khi đang có quốc tịch nước ngoài) công dân Việt Nam mới đồng thời có quốc tịch nước ngoài./.
Trần Thị Tú